Bảng tuần hoàn hóa học tốc hành (Phần 69)

Hiệp Khách Quậy Chỉ an toàn khi ngâm trong dầu, hoặc trong bình khí nitrogen hoặc khí trơ argon, caesium là một kim loại màu vàng nhạt dễ bắt lửa. Nó có các nguyên tử lớn nhất trong mọi nguyên tố, vì thế tự nó dễ dàng loại bỏ electron độc thân ngoài cùng. Kim loại kiềm này mềm và sẽ tan chảy trong tay nếu như bạn có... Xin mời đọc tiếp.

Caesium

Chỉ an toàn khi ngâm trong dầu, hoặc trong bình khí nitrogen hoặc khí trơ argon, caesium là một kim loại màu vàng nhạt dễ bắt lửa. Nó có các nguyên tử lớn nhất trong mọi nguyên tố, vì thế tự nó dễ dàng loại bỏ electron độc thân ngoài cùng. Kim loại kiềm này mềm và sẽ tan chảy trong tay nếu như bạn có thể an toàn làm một phép thử như thế. Giống như một khẩu súng đã lên đạn với cò rất căng, caesium lao ngay vào phản ứng dù là tiếp xúc hời hợt nhất với không khí hay nước. Quả vậy, đa số nhà hóa học xem caesium là nguyên tố có hoạt tính mạnh nhất.

Trong lớp vỏ Trái Đất, caesium là một ‘nguyên tố xung khắc’: kích cỡ lớn của nó ngăn các nguyên tử của nó tích hợp vào đa số mạng tinh thể chất rắn. Bởi thế, nguồn cung duy nhất của nó là các khoáng chất hiếm trong đá pegmatite kết tinh từ magma. Caesium còn là cơ sở cho chuẩn thời gian toàn cầu: các đồng hồ nguyên tử chính xác nhất thế giới – chuẩn xác đến 1 giây trong một triệu năm – đo tần số biến đổi tinh tế của ánh sáng vi sóng bị hấp thụ hoặc phát ra bởi các nguyên tử caesium-133. Một giây được định nghĩa chính xác là khoảng thời gian gồm 9.192.631.770 chu kì như thế.

Caesium

Barium

Nặng mà chắc, đó là barium. Nằm tận tít dưới của bảng tuần hoàn, nên khối lượng riêng và trọng lượng nguyên tử lớn là chuyện bình thường. Barium lần đầu tiên được điều chế bởi Humphry Davy vào năm 1808, bằng cách điện phân muối barium nóng chảy, song Carl Wilhelm đã nhận ra một nguyên tố mới trong khoáng chất barite tận hồi 1774. Hoạt tính mạnh hơn các kim loại kiềm thổ khác, barium mềm có ánh bạc không được tìm thấy ở dạng nguyên chất trong thiên nhiên: nó đủ hoạt tính để dùng làm ‘chất thu khí’ trong các ống chân không, loại bỏ cả những lượng khí còn sót lại rất ít.

Barite nghiền (barite sulfate), còn gọi là spar nặng, được dùng làm tác nhân trọng lượng trong khoan bùn, cung cấp áp lực khi khoan các giếng dầu và khí. Barium sulfate còn là chất lỏng trắng nhờn nhợt trong ‘bữa ăn barium’: khi ăn vào, hợp chất nặng này chặn tia X và cho phép ruột già hay thực quản được chụp ảnh. Barium sulfate không tan nên ăn vào vẫn an toàn, còn barium carbonate, thuốc chuột, tan trong acid dạ dày và gây chết người với liều lượng chưa tới 1 gram.

Barium

Bảng tuần hoàn hóa học tốc hành
Dan Green
Bản dịch của Thuvienvatly.com

Phần tiếp theo >>

Bài trước | Bài kế tiếp

Mời đọc thêm