Hiệp Khách Quậy Einsteinium được đặt theo tên nhà vật lí lí thuyết lừng danh Albert Einstein. Xin mời đọc tiếp.
Số nguyên tử: 99
Kí hiệu nguyên tử: Es
Trọng lượng nguyên tử: 252
Điểm nóng chảy: 860C
Điểm sôi: Không rõ
Nguồn gốc tên gọi: Einsteinium được đặt theo tên nhà vật lí lí thuyết lừng danh Albert Einstein.
Khám phá: Tháng 12 năm 1952, Albert Ghiorso và đội nghiên cứu của ông đã khám phá ra einsteinium trong khi đang khảo sát các mẫu bụi phóng xạ từ vụ thử bom khinh khí đầu tiên. Với biệt danh là “Ivy Mike”, vụ thử hạt nhân 10-megaton này xảy ra ở Nam Thái Bình Dương vào tháng 11 năm 1952. Vụ nổ đã tạo ra 253Es, một đồng vị có chu kì 20 ngày, và được đặt theo tên Einstein.
Nó là nguyên tố siêu uranium thứ bảy được khám phá, nhưng việc khám phá ra được giấu kín cho đến năm 1955 theo lệnh của quân đội Mĩ, do tình hình Chiến tranh Lạnh căng thẳng.
Tính chất của einsteinium
Tính chất hóa học của einsteinium là tiêu biểu của một nguyên tố actinide nặng, hóa trị ba. Nó là kim loại hóa trị hai đầu tiên trong họ actinide với hai electron liên kết thay vì ba.
Có những trường hợp oxide hóa II và III cho einsteinium đã được báo cáo, và mặc dù trạng thái IV đã được đề xuất từ các nghiên cứu dẫn hơi, nhưng nó chưa được xác nhận chính thức.
Einsteinium có tính tự xạ, nên rất khó thu được dữ liệu ảnh tinh thể tia X. Einsteinium giải phóng tia gamma và tia X cường độ mạnh.
Einsteinium có 16 đồng vị đã được ghi nhận và ba đồng phân với khối lượng nguyên tử từ 241 đến 256. Đồng vị bền nhất là 252Es, có chu kì bán rã khoảng 471,5 ngày. Các đồng vị 253Es và 254Es được sử dụng trong các nghiên cứu sinh hóa do tính tiện dụng và chu kì bán rã hợp lí của chúng. Tuy nhiên, do các hiệu ứng tự xạ mạnh của chúng, chỉ có thể sử dụng vài microgram trong các thí nghiệm vì nếu không thì công nhân có thể bị nhiễm xạ.
Các nguồn einsteinium
Einsteinium được điều chế nhân tạo. Einsteinium thật sự có mặt trong lò phản ứng phân hạch hạt nhân thiên nhiên ở Oklo, nhưng vết tích của nguyên tố từ địa điểm đó không còn tồn tại nữa. Lúc khám phá ra nó, 253Es được tạo ra bằng cách kết hợp 15 neutron với Uranium-238, sau đó xảy ra bảy phân rã beta.
Ngày nay, einsteinium được tạo ra qua một chuỗi dài phản ứng hạt nhân xảy ra khi bắn phá mỗi đồng vị trong chuỗi bằng neutron và sau đó cho đồng vị thu được phân rã beta. Vào năm 1961, đã có đủ đồng vị được tạo ra cho các nhà khoa học tách lập một lượng 253Es đáng kể dùng cho nghiên cứu. Tuy nhiên, trong phần lớn thời gian, chưa có lượng lớn einsteinium nào từng được tạo ra.
Công dụng của einsteinium
Vì chỉ có những lượng nhỏ einsteinium từng được điều chế, nên công dụng chủ yếu của nó là trong nghiên cứu khoa học. Trong lĩnh vực này, nó có thể được dùng để khám phá các hệ quả hóa học của phân rã phóng xạ. Einsteinium là nguyên tố nặng nhất trên đó các nghiên cứu được tiến hành, cho phép các nhà khoa học tiến hành các nghiên cứu cơ bản vai trò của electron 5-f trong họ actinide.
Còn có một số công dụng y khoa, mặc dù chúng không được thương mại hóa. Tính tự xạ cao của nó có thể dùng để nghiên cứu sự lão hóa nhanh và nghiên cứu các tác hại của bức xạ, và cho xạ trị.
Nguồn: Los Alamos National Laboratory, Jefferson Lab