Tính nhị nguyên với nguyên lý tương quan trong vũ trụ luận

Hiệp Khách Quậy Tính nhị nguyên với nguyên lý tương quan trong vũ trụ luận và một số suy nghĩ về nguyên lý bất định trong điện động (lực) học lượng tữ. Xin mời đọc tiếp.

Tính nhị nguyên với nguyên lý tương quan trong vũ trụ luận và một số suy nghĩ về nguyên lý bất định trong điện động (lực) học lượng tữ.


vu tru luan

Bài viết này là sự nối tiếp cho bài viết  “Một góc nhìn khác và một quan điễm mới.……..”  đã viết trước đây với một số phần được viết lại  trong đó được giãi thích rõ ràng hơn.Nội dung bài viết này có đưa vào một số khái niệm được trình bày dưới dạng ý tưỡng xem như quan điễm riêng cũa người viết,mặc dù các ý niệm này chĩ là cá nhân nhưng nhờ có nó bài viết mới định hình được chung với các thuyết khoa học phỗ biến và nếu hợp lý thì bản thân nó củng mở đường cho những giá trị mới mà những gì nhận được từ đó vẫn có ý nghĩa.

Bài viết trước ý tưỡng về một vũ trụ  nhị nguyên hình thành dưới hai dạng:vũ trụ  năng lượng tối –vũ trụ mẹ và  vũ trụ vật chất sáng –vũ trụ con.Hai thể tính (nhị nguyên) song hành với nhau ở mọi cấp độ với giá trị được thễ hiện qua tương tác trung gian mà ta vẫn quen gọi là trường và lực hấp dẫn mà theo quan điễm người viết thay là trường và lực thế dẫn (trường Néo) với lực hút hấp dẫn của nguyên tữ được thay bằng lực đẫy của trường thế.Các giá trị vật lý tương đương như trong lý thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton.Ý nghĩa của việc đổi chỗ    này có sự khác biệt rất lớn về vũ trụ quan trong cái nhìn hiện tượng luận.Các thuật ngữ vật lý nội dung củng khác nhau:thế năng hấp dẫn là lớn tỹ lệ thuận với khoảng cách so với mặt thiên thễ,thì tại nơi này thế năng thế dẫn là nhõ vì gần với trường thế cơ bãn và ngược lại.Tương tác giửa các thiên thễ với nhau cũng như định luật vạn vật hấp dẫn.

Năng lượng là gì?

Nhà toán học vật lý Feyman có phát biễu một câu “có thễ nói mà không sai,cho đến thời điễm hiện nay,ngành vật lý còn chưa hiễu rõ và định nghĩa năng lượng là cái gì?.Có lẽ vì nó thễ hiện qua nhiều dạng thức mà kết quã chĩ nhận được từ tương tác còn chính bãn thân nó thì vẫn phãi giãi thích như Feyman.Vấn đề đã rõ ! có lẽ đễ hiễu tốt hơn về vật chất và vũ trụ thì phãi bắt đầu từ đây và giãi thích thêm một chút gì đó về nó nếu có ý nghĩa thì củng là một giá trị tham khảo.

Trước hết xem vũ trụ năng lượng tối là  cái gì?

Trong loại vũ trụ này có tồn tại dưới hai dạng thức:vật chất tối (mà neutrino là một thành phần) và năng lượng tối  theo quan điễm vật lý thiên văn hiện nay.Điễm năng lượng tối (không gian) tồn tại ỡ thế tĩnh tại và nguyên thủy không thễ đo đạc trực tiếp, giá trị vật lý của nó nằm ngang hoặc dưới mức thang planck (nếu các hằng số này có giá trị cho toàn vũ trụ và toàn các mặt đẵng thế)..

Vũ trụ năng lượng tối được tạo thành từ những vi thễ năng lượng mà độ choán không gian ỡ thang Planck, riêng năng lượng thễ hiện thay đỗi theo trường thế.Mô hình hạt siêu vi này có thễ xem như một điễm với không gian rất hữu hạn với năng lượng thễ hiện dưới một sóng chuyễn động có cơ tính cơ năng đều hòa ra vào từ một tâm với chĩ một bước sóng mà tần số với chu kỳ thay đỗi theo một đơn vị thời gian (mô hình quy ước năng lượng có thễ dương hoặc âm –trong bài viết này là dương)  ;và đây cũng chính là năng lượng biến thiên của vi hạt trong toàn bộ chuỗi vật lý mà nó thễ hiện (trong trường thế củng như trong các hạt cơ bãn sơ cấp trong mô hình chuẫn).Khi giá trị năng lượng cực tiễu (bằng không) trong một chu kỳ tại tâm thì giá trị này có thễ xem là giá trị năng lượng biên của vũ trụ.

Mật độ năng lượng trường biến thiên được hiễu như sự thay đỗi năng lượng sóng (tần số-chu kỳ) của từng vi hạt trường thay cho quan điễm số lượng vi hạt trong một đơn vị thễ tích không gian trong bài viết trước (vì khoảng cách vi hạt là hằng số).Dưới một dạng chuyễn hóa thông qua tương tác,các vi hạt kết nối và thễ hiện dưới dạng một dây (lý thuyết dây) với chuyễn động sóng lan truyền theo một chiều.Chiều dài sợi dây này là một hằng số tùy theo giá trị nó thễ hiện trong các hạt cơ bãn sơ cấp,(hay các quark v.v…) và nhõ hơn bán kính của các hạt này.Năng lượng của các dây là rất cao thông qua tần số so với trường thế và chuyễn động sóng thoát ra ở đầu này (đồng thời cũng nhận vào ở đầu kia)thông qua một đường hầm vi lượng tữ vào một dây - từ ỡ thế năng lượng rất âm so với trường thế, mà ta thường gặp ỡ dạng bó rất lớn và vẫn gọi là đường sức từ trường (của nam châm).Như vậy dây - từ về mặt năng lượng được xem là âm cao so với trường thế, còn hạt (electron,proton,neutron v.v…) là dương và chính năng lượng âm này là năng lượng chính của nguyên tữ.Quan điễm này có phần ngược lại với quan điễm của Gamov nhà vật lý xô-viết: nếu năng lượng (thoát ra từ vật chất) là dương,thì lực hấp dẫn là âm,ý tưỡng này rất ấn tượng với Einstein.Các mạt sắt xếp theo các đường sức từ là do tại thế âm của nơi này nhưng theo bó của dòng năng lượng từ có lẽ chũ yếu là do các từ trường neutron gom lại.Các dòng từ của các hạt điện được xem là đơn cực từ và chuyễn động khã năng không thễ tạo ra chũ yếu dòng từ tĩnh này.Như vậy năng lượng của photon là âm so với điện tữ và sự chênh lệch không cân bằng (tỗng) vì năng lượng photon là năng lượng hãm thế có yếu tố ngoại tại nhưng năng lượng từ của điện tữ và năng lượng của điện tữ (tỗng) thì cân bằng với trường thế.   Do bãn chất như vậy các photon năng lượng cao (với  ý thế âm cao –tần số cao- quan điễm mới là năng lượng nội tại rất thấp so với trường thế không có nghĩa khã năng này là thấp nếu định vị nó làm chuẫn) và các hạt có khối lượng hay từ trường ngoài khi tương tác với nguyên tữ tạo ra sự thăng hoặc giáng điện tữ  theo những cách khác nhau  so với quỹ đạo trung bình ỗn định.

Do ỡ  giá trị âm này (chỉ có ý nghĩa khi so sánh với trường thế củng như vật chất là dương nhưng tương ứng với sự sụt giãm trường) photon đã có thễ di chuyễn với một khoảng cách vô hạn khi trường thế còn năng lượng khi trường thế hết năng lượng (thực sự khi cân bằng năng lượng với photon) thì không còn cái gọi là photon,nó trỡ nên lớn vô cùng dưới dạng sóng mang năng lượng khuếch tán vào trường.Do quy ước là như vậy mặc dù có thễ là ngược lại…trường thế là âm, các hạt âm rất cao,từ trường là dương và nếu như vậy thì thế giói vật chất chĩ là ão ãnh,phãi chăng đây là thế giới của siêu hình- phãn vật chất….?. Trong một điều kiện nào đó với nhiều cách: ví dụ từ trường ngoài siêu lớn tác động tạo nên một trường thế âm thì các phãn hạt tất yếu được tạo thành và thực sự không là ảo ãnh có khã năng tương tác…! Còn nếu xem trường (tĩnh -tại)  Néo là dương (siêu hình-vi thễ - nhưng không vô thực) thì sau khi hình thành vật chất củng là dương, tương đương với sự sụt giãm năng lượng của trường thì có sự cân bằng âm nào đó ở một không gian cuộn lại phía sau (ý nghĩa) của trường, thì yếu tố âm này có tính chất vô hình –siêu thực.

Các hạt cơ bãn,sơ cấp được hình thành như thế nào?

Mô hình của hạt electron được hình thành với các sợi dây xếp cạnh nhau chiếu tâm theo hình vành khuyên với mặt cắt hình nón cụt đáy rất rộng hay hình quạt đáy tròn gần bán cầu bên ngoài,năng lượng cao dạng sóng chuyễn động một chiều theo dây từ tâm rồi thoát ra ngoài rồi vào dây từ trường của cái gọi là đường hầm vi lượng tữ trực giao xuyên qua tâm vòng xuyến này nối lại vào một đầu ỡ đĩnh(tâm) hình nón cụt, hình thành một đơn cực từ cũa dây- từ này trong mô hình điện tữ (chiều dòng từ đối tâm từ hai bên) Electron không phãi là đơn cực từ mặc dầu luôn song hành với nó vì trong từ trường đối cực electron chuyễn động ngang còn đơn cực từ chuyễn động đối song, eletron chĩ là hạt đơn cực về điện tích với một cực ngoài theo chiều dòng ra từ tâm (quy ước).Với mô hình quã cầu gai thì electron tròn trĩnh hơn với chiều từ theo kiễu địa cầu nhưng dòng từ đơn cực từ đầu gai đi vào hai cực bắc-nam chứ không phãi từ bắc sang nam(hay ngược lại như quã đất).Với positron chiều sóng ngược lại.Proton củng như positron nhưng lớn hơn nhiều (vật lý) và chia thành ba đoạn tương đương với ba quark.Neutron củng giống như proton nhưng các dây xếp theo cặp đối song với nhau (điễm khác biệt),các sóng năng lượng ngược chiều nhau theo chiều cặp dây thoát ra hai chiều đối nghịch nhau nhưng cùng chiều xoay hình thành lưỡng cực từ trung hòa về điện tích.Mô hình này giống logo cảnh báo phóng xạ với từ trường xuyên tâm.Với cấu trúc phức tạp này thễ hiện được điện tích qua năng lượng tần số giống nhau (electron có điện tích bằng proton,tương tự như hai ly nước nóng cùng nhiệt độ cộng với nhau (trộn chung) được một ca nước nóng cùng nhiệt độ) và khối lượng khác nhau qua chiều dài sợi dây (mô hình sóng).Với khái niệm module hạt là một vòng dây khép kín với các giá trị của các hạt thễ hiện qua các mode dao động khác nhau,không thễ thễ hiện được hết hai giá trị này theo lý thuyết dây, vì theo quan điễm chung từ trường là cái gì đó có tính chất ngoại tại mặc dầu liên kết chặt chẽ nhưng chĩ xuất hiện khi hạt mang điện di chuyễn.

Neutrino là một hạt hình thành do sự nén năng lượng vi hạt trong một không gian hửu hạn trong một điều kiện rất đặc biệt, năng lượng bên ngoài rất cao cạnh một trường thế rất thấp, nhưng các hạt khối không thễ vào trong được do khuếch tán năng lượng (trường hợp hố đen hoặc các nơi khác) tạo thành hạt này.Vì vậy được xem là thành phần vật chất tối của vũ trụ tối không có từ trường và chiều từ nào cả,mặc dầu năng lượng là cao nhưng không tương tác (hoặc tương tác ít).Vật chất tối của vũ trụ sáng do phãn xạ hoặc bức xạ quá ít photon và hiện diện khuất hoặc quá xa nên không nhận biết được (nhưng có thễ nhận biết qua thế dẫn) và là vật chất thông thường có tương tác vật lý.

Photon là một hạt đặc biệt (thực sự không phãi là một hạt),nó được tạo bởi từ trường với một cấu trúc không cố định như các hạt khác.Năng lượng của nó thay đỗi tùy theo tần số,qua thực nghiệm số photon đun nóng một ly cà phê ở tần số cao (tia tữ ngoại) ít nhiều lần số photon ở tần số thấp hơn (tia hồng ngoại).Mô hình của nó có dạng các màng (đan kết bởi dây từ) thành hình khối với năng lượng sóng cao dần từ ngoài vô trong tâm,ỡ tần số rất cao (tia x trỡ lên) photon thễ hiện tính hạt rất rõ,ỡ tần số vi sóng trỡ xuống photon thễ hiện tính sóng rỏ rệt,ỡ tần số ánh sáng khã kiến lưỡng tính sóng –hạt song hành.Mặc dù với tần số nào năng lượng cũng ở dạng sóng từ.Tính nhiễu xạ và giao thoa ta thường thấy ở ánh sáng là do sóng mật độ của các photon phát đồng bộ theo các lớp từ ngoài vô trong của mạng tinh thễ nguồn phát, lần lượt theo thời gian và cường độ năng lượng trong đó có sự khuếch tán theo mặt cầu từ nguồn phát với tính trực xạ của photon.Vì vậy photon không phãi là hạt  tạo nên cấu trúc nguyên tữ cho nên cần loại ra khỏi mô hình chuẫn vốn đã chưa có một định hình rõ rệt về nó.Do cấu tạo bởi từ trường, photon được xem là âm so với trường thế,tại tâm là “âm rất cao đối với tần số cao”.Tác động kích hoạt của nó đối với vật chất ở thế âm này và thế trường song hành và ở vận tốc cao của nó (âm hay dương chĩ là quy ước đễ so sánh).Khi photon di chuyễn tiến vào trường thế càng suy giảm,vận tốc đầu của nó giảm dần (hiệu ứng hãm thế -ngược lại với vật chất) hiệu ứng doppler tần số trong xảy ra, năng lượng nội tại photon tăng dần tương ứng với tần số (năng lượng này có tính hướng dương so với trường có nghĩa là tần số nội giãm -âm thấp ít,như vậy đối với hiệu ứng doppler, hiệu ứng tần số trong (năng lượng) của photon có liên quan chặt chẽ với vận tốc trong định luật bảo toàn năng lượng),khi ngang bằng tần số năng lượng của trường thế thấp thì không còn cái gọi là photon,tại gần biên trong của chân trời sự cố nơi hố đen điều này đã xảy ra.Khi tiến ra hiệu ứng ngược lại có nghĩa vận tốc tăng –tần sồ nội tăng -năng lượng so sánh với trường thế giãm, bù vào vận tốc nhưng tổng là bão toàn.Quan điễm này khác với Einstein,cho rằng khi photon thoát ra vũ trụ nó bị mất năng lượng(vận tốc hạt -chĩ một khía cạnh) do hấp dẫn  vì như truyền thống photon có xung lượng dương với hấp dẫn và như vậy thì không thễ đi xa được ….! Mặc dầu củng có lúc ông cho rằng vận tốc ánh sáng là hằng số vũ trụ,có lẽ là do từ thí nghiệm Michelson với thuyết tương đối hẹp.Như vậy trong thực tế cái gọi là tần số sóng mà ta thực chứng là tần số từ trường còn các loại tần số sóng khác (nội hạt-vi hạt) là lý thuyết dùng đễ so sánh.

Như vậy ta đã có một không gian năng lượng dưới hai hình thức (nhị nguyên) tương quan với nhau ở mọi cấp độ thế còn thời gian thì như thế nào?

Trước đây thời gian theo quan niệm phỗ biến và truyền thống,thời gian có ý nghĩa tất định khách quan và có một chiều dương trôi đều đặn từ quá khứ đến…..tương lai không trỡ lại,không phụ thuộc vào các định luật vật lý,không gian cho đến khi Einstein (và không chĩ Einstein) đưa tầm nhận thức lên một mức với thời gian không còn tất định khách quan,nó phụ thuộc vào định luật vật lý và không gian,mà không gian thực của vũ trụ là không gian cong do ãnh hưởng cũa trường thế (hoặc hấp dẫn-Einstein),tất nhiên thời gian cũng phãi trôi theo chiều cong này.Nhân loại bỗng dưng được có thêm một khái niệm mới –không thời gian cong…!, nhưng không phãi ai cũng hiễu được ý nghĩa này mặc dầu nó là hiện thực..Không thời gian phẳng là một hửu hạn nằm trong phạm trù trên tuân theo định luật Newton.

.   Quan điễm (ý tưỡng) của bài viết này cho là:Thời gian không phãi là thuộc tính tự nhiên,hay có nghĩa vũ trụ không có thời gian thực đồng nghĩa thời gian không phãi là tự tại có tự tính của không gian.Thời gian chỉ là ảo ãnh của nhận thức và phãn ãnh của kinh nghiệm.Khi không có hoặc không còn nhận thức thì thời gian vô nghĩa.Cái gọi là thời gian không hề tác động đến định luật vật lý,các định luật này diễn ra không cần kèm theo cái gọi là thời gian? khoa học không chấp nhận một triết lý mơ hồ thiếu chứng cứ rõ ràng

như vậy ! vì lấy gì làm thước đo hay còn gọi là chiều thứ tư,nhưng với ý nghĩa này ta sẽ thấy cách cấu trúc thời gian của nhận thức (theo vật lý) như sau:

Do nhận thức kinh nghiệm và thước đo quá trình diễn biến các định luật lý hóa v.v…cần phãi có một gốc quy chiếu với một giá trị được ghép vào thễ hiện điều này,thời gian được ghép vào với ý nghĩa là một thuộc tính tự nhiên (tất yếu).Ý nghĩa mới ỡ chỗ cái thước đo này thay đỗi dựa theo chuẫn vật lý mà nó song hành trong không thời gian cong,mà cái không thời gian này thì cong liên tục (độ uốn) trong một trường thế.Các giá trị đồng đẵng chĩ thễ hiện trên một mặt cong gọi là mặt đẵng thế với độ dày bằng cỡ đường kính hạt nhân, mặc dâù giá trị thực tế có ý nghĩa thì lớn (dày) hơn rất nhiều.Nhiều mặt đẵng thế với giá trị khác nhau (thế dẫn yếu đi hoặc mạnh lên) chồng chập lên nhau tạo thành trường thế.Ý tưỡng đã rõ ràng với một ví dụ cụ thễ: Một con lắc dao động với một ly độ là như nhau khi chuyễn qua các mặt đẵng thế khác nhau,thì thời gian thực hiện một chu kỳ là khác nhau nếu lấy một đơn vị thời gian theo một chuẫn tất yếu nào đó (ỡ mặt đầu tiên chẵng hạn).Trong thực tế nếu đến gần ngoài biên hấp dẫn (thế dẫn) thì con lắc đu đưa rất chậm đến biên thì ngừng lắc ; và nếu lấy chu kỳ một dao động làm một giây thời gian, thì tại các mặt đẵng thế có các thời gian dài ngắn khác nhau. Với ý nghĩa này nếu sống đồng thời trên các hành tinh có khối lượng khác nhau thì cùng một lúc nếu dùng đồng hồ quã lắc (định luật vật lý –cơ học) thì thời gian mỗi người là khác nhau.Với đồng hồ nguyên tữ tần số phóng xạ cũng như vậy qua vệ tinh do áp thế năng lượng (thế hấp dẫn-thế dẫn) cũa trường chứ không phãi do vận tốc vệ tinh (đồng hồ sinh học của sinh vật củng như vậy), có thễ kiễm tra điều này với một vệ tinh có đồng hồ nguyên tữ trên một quỹ đạo cách khá xa quỹ đạo địa tĩnh (qua tính toán) với vận tốc bằng vận tốc bề mặt khi quay cũa quã đất (ly tâm bằng hấp dẫn) thì đồng hồ nguyên tữ khác vẫn chênh lệch nhiều hơn,Vì vậy thời gian co giãn theo vận tốc (của vệ tinh) không còn ý nghĩa.Việc này có ý nghĩa trong việc kiễm chứng tính tương đối về thời gian co giãn theo vận tốc cũa lý thuyết Einstein.Dĩ nhiên phãi đặt đồng hồ thích hợp (nhiều hướng) đễ không xãy ra hiện tượng Doppler làm ãnh hưỡng đến kết quã.Mặc dầu vận tốc có ãnh hưỡng đến tần số nhưng quan điễm Einstein không ỡ ý nghĩa này.Qua đây ta thấy vật chất không định hình cố định trong trường thế,ý nghĩa này quan trọng trong quan điễm năng lượng nguyên tữ  và củng không lạ khi vừa đây người ta nhặt được một thiên thạch có gốc carbon nhưng cứng hơn nhiều lần kim cương.

Ý nghĩa thời gian co giãn theo định luật vật lý như đã nói ở trên.Phép biến đỗi Lorentz áp dụng khi muốn (toán học) các hiện tượng này xãy ra là như nhau cùng thời điễm trên các mặt đẵng thế thì độ dài một đơn vị thời gian xảy ra tại các nơi phãi thay đổi (nếu lấy một độ dài đơn vị thời gian nào đó làm chuẫn) được Einstein áp dụng trong lý thuyết tương đối.Thực tế nếu áp dụng vào con lắc đặt trên cao thì một đơn vị thời gian cho một dao động của nó phãi dài hơn dưới thấp đễ cuối cùng hai con lắc về đến đích cùng lúc…!? Vì thế phép thuật này (thuật toán) chĩ có ý nghĩa về mặt toán học không áp dụng được trong thực tế.Thế nhưng điều này lại xãy ra trong thí nghiệm Michelson với kết quã là bất biến thì phãi giãi thích như thế nào? vì theo quan điễm của bài viết thì mọi định luật vật lý và thời gian phãi là như nhau trên cùng một mặt đẵng thế (dù có chuyễn từ hệ quy chiếu này qua hệ quy chiếu kia trong cùng một mặt).

Với một kết quã kỳ lạ như vậy,quan điễm bài viết này cho rằng các định luật vật lý đã thích ứng (thay đỗi) khi chuyễn từ hệ quy chiếu này sang hệ quy chiếu kia và cho ra một kết quã đồng đẵng.Ỡ đây không có yếu tố thời gian co giãn, hoàn toàn vật lý.

Trước hết khái quát lại ý nghĩa tương đối trong cơ học cỗ điễn (Galileo) mọi định luật cơ học là như nhau khi chuyễn từ  hệ quy chiếu này sang hệ quy chiếu khác (quán tính) cần phãi có một điều kiện đũ (người viết) tất cã các vật thễ trong hệ chuyễn hoặc liên quan đến định luật cơ học diễn ra trong hệ phãi có cùng vận tốc quán tính như hệ chuyễn

thì các định luật cơ học này là như nhau với định luật cộng vận tốc ;và khi chuyễn qua hệ phi quán tính (có gia tốc) thì cũng như vậy.Bởi xét cho cùng,không một ai có thễ khẵng định rằng hệ quy chiếu gắn với mặt đất ở hệ quy chiếu nào (tĩnh,quán tính hay phi quán tính)? và thực tế chúng ta đang di chuyễn theo hướng nào…! và nếu các hệ quy chiếu chồng chập với nhau như vậy thì lấy gì làm mốc đễ so sánh.Có thễ nói mà không sai, tự các hệ quy chiếu đã có một giá trị nội tại,mọi định luật diễn ra ở đây đã có giá trị định xứ.Đây là quy luật rất quan trọng.

Trỡ lại với thí nghiệm Michelson,có lẽ có thễ chúng ta đang sống trong một hệ quy chiếu tĩnh tuyệt đối   (ỡ mức độ vũ trụ)…vì vậy sự chuyễn hệ đã không xãy ra (trong nhận thức).Có thễ kiễm chứng ý tưỡng này bằng chính thí nghiệm Michelson với thay đỗi một chút.

Với dụng cụ này có thễ đặt lại một trong hai gương nằm ngoài biên di chuyễn trên một trục (trục ánh sáng) dài và ngắn so với bãn gốc (hoặc hai gương biên ngoài di chuyễn khác tốc độ nhưng bố trí khi đi ngang qua vạch cũ của bãn gốc thì phãi cùng lúc).Tốc độ di chuyễn là vài milimet/giây (tương tự như thí nghiệm Mossbauer) hoặc khá lớn đễ so sánh.Lúc gương đi qua khoãng cách bằng với bãn gốc,nếu kết quã là đồng pha thì quan điễm Einstein là chính xác (hoặc chưa xác định được với ý tưởng sau) nếu nhận được một vạch xanh hoặc đõ thì hệ quy chiếu tĩnh là đúng.

Một nhận định khác như sau,trong thực tế ta thấy trường thế dẫn di chuyễn đồng bộ với khối lượng vật chất.Nhưng thực sự các vi hạt Néo không di chuyễn chĩ có sóng năng lượng (tần số vi hạt) biến thiên theo thế trường sụt giảm.Khi các gương di chuyễn cùng chiều với chiều ánh sáng thì trước mặt gương bán mạ (và một gương biên) có sự tăng thế trường Néo và sau lưng nó có sự giãm thế trường qua sự tăng giảm tần số tương đương với tốc độ dịch chuyễn của hệ,hiệu ứng này bù trừ cho hiệu ứng doppler qua gương phãn xạ và một gương biên (nguyên lý tương quan).Do năng lượng ánh sáng rất tinh tế đồng thời di chuyễn trên nền là các vi hạt bằng từ hóa (bài viết trước) thì ý nghĩa này (hiệu ứng) phãi được tôn trọng và xem xét đúng mức,tất nhiên các hiệu ứng khác như trường thế giãm và xuyên gương của hai tia sáng là như nhau.Ngày nay có nhiều thí nghiệm được thiết kế rất tinh tế có thễ cho ta biết sự thực vấn đề gây tranh cãi thường xuyên này nếu quan tâm đến nó.Qua thí nghiệm mới trên,ta thấy một hiệu ứng rất quan trọng,hiện tượng doppler chĩ xãy ra khi một trong hai(hoặc cả hai ngược chiều–khoảng cách co hoặc giãn) nguồn phát và nơi nhận di chuyễn (nghĩa là khoãng cách thay đỗi –và chĩ so sánh được với quang phỗ ban đầu làm mẫu chuẫn–cách phân tích quang phỗ cũa hiện tượng doppler vũ trụ dãn nở bằng giao thoa kế) còn nếu ngược lại toàn hệ di chuyễn –nghĩa là khoãng cách bằng nhau,thì tất yếu không có hiệu ứng này.Chĩ bằng suy luận đơn giãn ta thấy tính tương đối về thời gian không có chỗ tồn tại.Đối với thí nghiệm Michelson việc phân tích rất rắc rối với hiệu ứng doppler cho thấy tính bất định của ánh sáng (đúng hơn là nhận thức).Theo quan điễm của ông Michelson khi tiến hành thí nghiệm theo chiều quay của quã đất thì phãi nhận được một vạch đõ là như sau: sóng ánh sáng đồng pha khi đến gương bán mạ thì tách ra làm hai,một tia phãn xạ tại gương bán mạ về gương biên rồi đến giao thoa kế,tia này giãm tần số (dịch chuyễn đõ) vì gương phãn xạ di chuyễn lùi.Tia thứ hai xuyên qua gương bán mạ đến gương biên giãm tần số vì phãn xạ qua gương đang lùi này rồi di chuyễn ngược về gương bán mạ lại tăng tần số khi phãn xạ qua gương do gương này di chuyễn ngược chiều với tia,rồi về giao thoa kế,tia này không tăng hay giãm tần số vì bù trừ với nhau,như thế tại giao thoa kế nhận được một vạch đõ theo ý của Michelson.Nhưng củng có thễ giải thích theo một cách khác:Ánh sáng đi ra khỏi nguồn phát đã tăng tần số (dịch chuyễn xanh) vì nguồn di chuyễn cùng chiều với sóng ánh sáng,như vậy tia thứ nhất được bù trừ còn tia thứ hai thì xanh? Giao thoa kế có một vạch xanh…! Nhưng tại nơi này chẵng nhận được vạch nào…vì đồng pha.Với kết quã kỳ lạ này chĩ có thễ giãi thích như sau:Trong hệ không có hiện tượng doppler (vì khoảng cách nguồn và gương bán mạ cố định không tính khoảng cách đều còn lại,và như thế không còn yếu tố thời gian co giãn đễ đồng đẵng hiện tượng). Hiện tượng lệch pha này chĩ xảy ra khi khoảng cách giửa nguồn và gương bán mạ thay đỗi và chỉ nhận được chuyễn dịch (một vạch) khi so sánh với mẫu quang phỗ làm chuẫn ban đầu (tương tự như phương pháp đo dịch chuyễn vũ trụ hiện nay) chứ không phải so sánh giửa hai tia với nhau (mặc dầu theo nhận thức cuối cùng hai tia sẽ khác nhau về tần số),vì như thế củng đồng pha,mà thí nghiệm này lại là ý tưỡng và chứng minh cho thuyết tương đối….! Nếu như trong hệ có doppler thì cách thiết kế dụng cụ thí nghiệm với nhận thức và phương pháp thực hiện không thễ phát hiện ra điều này,việc này cho thấy nhận thức tự nhiên không hề đơn giãn.Vì mặc dù có hay không hiện tượng doppler,củng không có tính tương đối trong chuyễn đỗi thực tế.Tính định xứ là nguyên tắc ứng xữ của tự nhiên.

Các photon được tạo thành và bức xạ ra như thế nào?

Trong trạng thái bình thường,các nguyên tữ (kim loại) ỗn định trong mạng tinh thễ,các electron di chuyễn trên các quỹ đạo (hay xác xuất trên vân đạo) với spin ½ tương ứng với 720 độ nghĩa là sau khi quay hai vòng thì các giá trị (moment từ spin,moment từ quỹ đạo)trở lại như cũ.Thực ra trên mặt cầu quỹ đạo electron chỉ di chuyễn một vòng với quỹ đạo khá phức tạp,và nếu có tác động nhiệt ký sinh thì quỹ đạo này không thễ xác định được,tính ngẫu nhiên của vị trí điện tữ như trong chuyễn động nhiệt Brown chỉ có thể xem xét sự xác suất của nó với ý nghĩa bất định, hình như có lúc nó biến mất tại một nơi mà lẽ ra nó phãi có mặt lân cận với một ngưỡng cho phép.Sự thực nó di chuyễn như thế nào?. Ta hình dung điện tữ như một viên bi lăn trên vành ngoài một cái đĩa mà tâm cũa nó là hạt nhân nguyên tữ.Chọn một thời điễm bất kỳ làm gốc,đối diện với người quan sát,ta từ từ lật úp cái đĩa này 180 độ,ta thấy viên bi chạy ngược trỡ lại khi cái đĩa lật úp? thực tế trên mặt cầu quỹ đạo nó vạch hai vòng cung thành hình sin,đó là mặt cầu trên còn mặt cầu dưới thì hình sin ngược,chiếu hai hình này thành hai vòng tròn nhỏ (720 độ) đường kính hình chiếu bằng bán kính quỹ đạo.Nguyên nhân là do tương tác electron với spin từ hạt nhân qua lực tĩnh điện với chiều dòng từ, lực tĩnh điện củng là lực từ mà lực từ là lực năng lượng với nguyên lý hợp dòng hoặc đẫy,thuận hay nghịch theo chiều sóng năng lượng.Với nguyên lý hợp dòng (chiều),vật chất được đẫy bằng thế trường,lực tương tác mạnh trong hạt nhân là do thế trường tại đây âm rất sâu với dây từ ở thế tương song không đẫy của các hạt proton và khối lượng quá lớn của các hạt trong này so với điện tữ.Trong thế giới tự nhiên không có cái gọi là lực hút ở cã vi mô lẫn vĩ mô.Vật chất tương quan với nhau qua thế tương khắc hoặc tương thông.Áp thế đẫy là nguyên lý chũ đạo không thễ bàn cãi.Cái gọi là hạt graviton mang tương tác hấp dẫn (hút) chưa bao giờ được tìm ra và có lẽ vĩnh viễn bao giờ cho đến tháng mười…..!

Trỡ lại với điện tữ,khi hạt nhân nguyên tữ va chạm với một hạt mang năng lượng cao, nó dao động từ thế đang ỗn định,các điện tữ cũng bị tác động theo mặc dầu khoãng cách giữa điện tữ và hạt nhân là cố định.Cái đĩa đã nói ở trên dài thêm ra thành cái đĩa hạt xoài (ellip) quỹ đạo dài thêm,electron phải tăng tốc tại viễn điễm khi rời bán trục dài và giãm tốc khi chuyễn từ cận điễm của bán trục ngắn đến viễn điễm bán trục dài trong khi di chuyễn hình sin trên mặt cầu quỹ đạo.Đây chính là sóng điện trường mà Maxwell đã mô tã.Trong khi tăng tốc điện tữ nhận năng lượng từ ngoài dưới dạng doppler tần số năng lượng dây chũ,khi giãm tốc điện tữ thoát năng lượng nhận thêm này.Sóng năng lượng nội tại của electron bị doppler tần số thuận và nghịch, từ trường của nó củng ảnh hưỡng tương ứng theo.Năng lượng hãm thế của nó thoát ra ngoài dưới dạng giao bội từ trường hay còn gọi giao thoa lượng tữ và có thế âm với trường.Tốc độ thoát của photon các phương trình của Maxwell đã nêu rỏ vì trong điều kiện tại nguyên tữ trong vật chất là không có không khí (chân không),khi thoát ra ngoài nó di chuyễn theo vận tốc đầu và từ hóa các hạt Néo trên đường đi, tốc độ bị ãnh hưỡng trong môi trường có vật chất ở bên ngoài,khi xuyên qua thế trường tốc độ của nó bị ảnh hưỡng như đã nói ở trước.Trong thủy tinh vì bản chất photon là từ trường nên di chuyễn dễ dàng (củng như từ trường của nam châm) sóng điện trường không di chuyễn được vì thủy tinh cách điện và thực sự nó nằm lại trong nguyên tữ nguồn phát và không di chuyễn cùng với sóng từ trường như phương trình truyền xạ cũa Maxwell trong sóng điện –từ.Đây là bằng chứng rỏ ràng các sóng có bãn chất photon là sóng từ không thễ chối bõ được.Tuy nhiên,nếu xem thủy tinh hoặc khí quyễn là truyền dẫn với hiệu ứng tạo ra photon trên nguyên tữ của nó và sự truyền xạ theo cách này thì vấn đề còn phãi xem xét lại và nghiên cứu thêm, nếu đúng   như vậy thì sóng điện - từ có ý nghĩa trong trường hợp này.Trong chân không ngoài khí quyễn không có sóng điện trường chỉ có photon.Trong tỗng thuyết tương đối của Einstein có nhiều phạm trù, một số phần còn đang tranh cãi về phương pháp luận trong toán học.Vì cũng như Stephan Hawking,ông đã từ bõ quan điễm cũa mình đã chứng minh chặt chẽ bằng toán học(nhưng ít người hiễu nỗi) khi thấy nó không phù hợp với thực nghiệm (quan sát thiên văn mới), thật là các nhà khoa học chân chính và cao cã.

Với chũ đề thiên văn,bài viết này đề cập đến một số hiện tượng thiên văn đang tranh luận hiện nay….!

Trước tiên hố đen là cái gì? mọi người  quan tâm về nó nhưng không hiễu rõ thực ra nó như thế nào…? hình như cái gì  màu đen cũng bí ẫn.Hố đen (về mặt toán học) được tạo ra bởi sự suy sụp hấp dẫn của một vì sao lớn hơn nhiều lần mặt trời.Tại nơi này theo các nhà vật lý thiên văn ; bên trong chân trời sự cố (một vòng tròn hay một khối cầu) có sự nén khối lượng vật chất đạt đến mật độ mà lực hấp dẫn tạo ra cao hơn thoát tốc của ánh sáng,đễ đạt được mật độ này thì trái đất được nén lại bằng một quã dâu đường kính bằng 3 cm.Thật kinh khủng với một thực thễ gây ấn tượng như vậy ! không biết có thực hay không? nhưng các vị hàn lâm đoan chắc vì thực sự đã quan sát bằng kính thiên văn ! rõ ràng không có một chút ánh sáng thoát ra từ chỗ đen đó.Đồng thời vật chất gần đấy củng đang bị hút vào nơi này tuy có nôn (ói) ra một ít theo đường hầm lượng tữ nào đó do tiêu hóa (nén) không hết.Các quan sát gần đây cho biết tại đĩa bồi có thoát ra tia x,sóng vô tuyến và vật chất,nhưng ánh sáng khã kiến thì không có…! Có lẽ nó vì nó đẹp (bảy màu) cho nên được chiếu cố riêng đặc biệt lọt vào chân trời biến cố chăng …? và entropy của hố đang tăng lên  v.v…! Qua đây ta thấy vật chất không chĩ biễu hiện giống nhau về hiện tượng mà còn bắt chước giống tính cách thế nhân vốn là sinh vật cấp cao  và hiện nay chưa có bằng chứng có nơi nào hơn……!

Theo ý tưỡng người viết,thực ra cái hố đen (loại nhìn thấy qua kính thiên văn) không phãi là cái phễu khỗng lồ của vũ trụ với một cái dạ dày bị viêm (do đi theo quan điễm hấp dẫn).Nó chĩ là một lốc xoáy năng lượng khỗng lồ của trường thế (Néo).Trong chân trời sự cố, vận tốc xoáy các vi hạt rất lớn đẫy phần lớn năng lượng vi hạt ra biên chân trời tạo nên một thế trường âm rất lớn (tương đương với sự nén hấp dẫn) tất nhiên vật chất gần đó bị đẫy vào và xoáy vòng trên đĩa bồi nhưng không thễ nào lọt vào trong chân trời sự cố được vì bị gia tốc ly tâm và năng lượng xoáy bên trong đẫy ra,hình thức củng giống như bão lốc trên quã đất.Tác động thế âm sụt giãm không chĩ tại hố đen mà còn bao quanh cã một vùng rộng lớn trùm lên các thiên vân gần đó (giống theo mô hình cơn bão cấp 12).Vật chất đẫy vào được gia tốc lên tốc độ rất lớn ma sát với nhau nóng lên và bức xạ ra…….ánh sáng khã kiến !? (vì sự ma sát mà bức xạ ra tia x và sóng vô tuyến thì chưa thấy bao giờ) vấn đề được giãi thích như sau:vật chất sau khi ma sát và bắn ra với vận tốc rất lớn,ánh sáng phát ra bị Doppler tần số,đối với vật chất và ánh sáng bắn về hướng quan sát, ánh sáng khã kiến tăng tần số trỡ thành tia x.Đối với vật chất bắn ngược lại (mặt kia đĩa bồi) ánh sáng phát ra về hướng quan sát giãm tần số thành sóng vô tuyến (chĩ có khí rất nhẹ như hydro,heli và ở trường thế rất thấp cận biên ngoài chân trời sự cố mới có thễ đạt được vận tốc này).Vì vậy ta không thấy ánh sáng nhìn thấy thông thường.Còn các hạt neutrino là do năng lượng các vi hạt bị nén lại tại vùng biên trong chân trời sự cố do sự thoát năng lượng từ bên trong đưa ra tạo thành, vì vậy đây là nguồn tạo ra hạt neutrino rất lớn, còn trong hố đen (trong chân trời sự cố) không có bức xạ hoặc phãn xạ ánh sáng và cũng không có vật chất trong này.Sự việc đơn giãn không có gì khó hiễu.

Có một câu hỏi:tại sao mặt trăng với một mặt luôn hướng về quã đất trong khi quay còn quã đất thì không như vậy khi quay quanh mặt trời?

Đối với mặt trăng khi quay quanh quã đất,do tâm trọng khối riêng của nó không đều từ lúc khai sinh, cho nên sau một thời gian quay ỗn định trong quá khứ xa xưa, phần trọng khối nặng hơn luôn hướng về quã đất như ngày nay và vật chất của nó đã ỗn định trên các mặt đẵng thế khi quay quanh địa cầu hiện nay,còn quã đất khi quay quanh mặt trời do quỹ đạo hình ellip cho nên vật chất xuyên qua các mặt đẵng thế tạo nên lực quay và môment quán tính này cũng đã ỗn định (Vấn đề này gần giống như khi thiết kế các con ốc xiết mâm bánh xe hơi ngược chiều nhau ỡ hai bên xe mặc dù trong trường hợp này là do chênh lệch moment quán tính của con tán từ ngoài vô trong tạo nên lực quay xiết vào).Dĩ nhiên còn phãi xem xét tương tác chiều từ trường đối ứng mặc dù là rất nhõ và ỡ thế tương song của hai thiên thễ.

Các thiên thễ trong thái dương hệ hoặc trong thiên hà thường di chuyễn trên một mặt phẵng có dao động chút ít trên mặt này quanh một tâm là do tại nơi này (mặt ngang thế) giá trị trường thế là thấp nhất do sự hiện diện tập trung các thiên thễ.Lý thuyết mặt cong hấp dẫn (thế dẫn) với khối lượng quán tính trong thuyết tương đối suy rộng giãi thích chính xác về hiện tượng này.Còn hiện tượng quang doppler với dịch chuyễn đõ của vũ trụ thì có thễ giãi thích một cách khái lược:nếu vũ trụ là năng lượng thì không thễ vô tận trong không gian rỗng được…năng lượng giãm dần về hướng biên vũ trụ đễ tiến tới bằng không,không gian hết năng lượng (thực sự có hiện tượng sóng dừng).Vật chất tiến về biên này dưới lực đẫy thế trường ở quy mô vũ trụ,hiện tượng quang doppler với dịch chuyễn đõ xảy ra với thế trường ở biên âm sâu hơn thế trường gần thiên thễ nên không có tình trạng các thiên thễ co cụm với nhau ở quy mô toàn vũ trụ, đối với dịch chuyễn đõ này không chĩ do vận tốc và hướng tiến ra ngược với hướng quan sát đối chiếu với thiên thễ:vì như đã nói ở trên, nó được bù trừ như mô tã trong thí nghiệm Michelson. Sự dịch chuyễn đõ này là do khoãng cách tăng lên do sự dãn khoãng cách giửa các thiên thễ khi di chuyễn ra ngoài,vì thế bất cứ chỗ nào trong vũ trụ và bất cứ hướng quan sát nào đều nhận thấy có sự dịch chuyễn này.Khi đến trường thế giãm thấp đến mức nào đó,vật thễ bức xạ dần năng lượng dưới dạng sóng,năng lượng trường tăng lên (entropy vũ trụ năng lượng tăng) khi không còn vật chất,sóng năng lượng chuyễn đến tâm vũ trụ và một vụ nỗ bigbang xãy ra.Và nếu xem chu kỳ sóng này có mô hình như vi hạt thì chúng ta sẽ có nhiều vũ trụ khác lân cận (lượng tữ mô hình đa vũ trụ) có tính luân hồi.

Bài viết này trình bày quan điễm người viết dưới dạng các ý tưỡng có một số phần khác với quan điễm vật lý phỗ biến.Người viết cho rằng khoa học không chĩ nhất thiết đi theo những quan điễm lớn mặc định vững chắc đã vạch sẵn mà cần được tư duy cởi mỡ hơn,có khi có thễ giúp chúng ta tiếp cận được với chân lý,suy cho cùng đó cũng là ước mơ của mỗi  người  muốn tìm hiễu những gì còn chưa lý giãi được trong cái thế giới vũ trụ mênh mông huyền ão và lạnh giá này.Cám ơn các bạn đã dành thời gian đọc bài này và hy vọng gặp lại các bạn ở các bài viết sau với các chũ đề kỹ thuật qua góc nhìn mới có giá trị thực tiễn trong đời sống hơn mà con đường này thì khá dài …cỡ tour de france, còn bãn thân thì vẫn loay hoay mãi với câu hỏi,phãi chăng vũ trụ chúng ta chĩ là tế bào của một cái gì đó rộng lớn hơn,mà với tác động cũa nó đã sắp xếp huyền diệu cái bộ máy tinh vi của thế giới tự nhiên một cách chính xác như được lập trình sẵn,không có chút sai sót hoặc bất hợp lý một cách lạ lùng này ….! Và thực sự đó là cái gì?

Ea-Hleo Daklak.ngày 2 tháng 2 năm 2010
người viết
Đặng ngọc Thủy

Bài trước | Bài kế tiếp

Mời đọc thêm