Một góc nhìn khác và một quan điểm mới trong nhận thức bản chất ánh sáng phi Einstein với các quan điểm vật lý truyền thống

Hiệp Khách Quậy Đối với khoa học,với sự phát triễn mạnh mẽ của phương tây với phép biện chứng phân tích và tỗng hợp nghiêng nhiều về một mặt của vấn đề đã giãi quyết tốt hiện tượng luận,nhưng khi sâu vào bản thễ vũ trụ vật chất thì có lẽ cần đến triết luận. Xin mời đọc tiếp.

Lời bình luận

vu tru luan

Với ý nghĩa “Tính nhị nguyên với nguyên lý tương quan….” Có lẻ chúng ta đã khá quen ý nghĩa này trong đời sống hằng ngày,vì nó xuất hiện hầu hết các lĩnh vực của  đời sống và đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi con người từ thời cỗ đại cho đến hiện nay.Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn,khái niệm này đã thễ hiện rất rõ tính hai mặt của một sự kiện và có lẽ là thuộc tính tự nhiên của thế giới,đồng thời củng là chìa khóa đễ giải mã toàn bộ những gì chưa lý giải được nếu chĩ xem xét một chiều của tác nhân.Sự song hành đối lập với quan hệ tương quan là bãn thễ của vũ trụ.Đây là nguyên lý tỗng quát và mặc định của tự nhiên chi phối tất cã mọi nguyên lý hiện tượng,khoa học củng không ngoại lệ.Nếu có một phạm trù nào đó vi phạm vào yếu tính này tất yếu đến một lúc nào đó sự mâu thuẫn sẽ thễ hiện rỏ và nguyên lý tương khắc sẽ phãi thực hiện công việc của mình.

Đối với khoa học,với sự phát triễn mạnh mẽ  của phương tây với phép biện chứng phân tích và tỗng hợp nghiêng nhiều về một mặt của vấn đề đã giãi quyết tốt hiện tượng luận,nhưng khi sâu vào bản thễ vũ trụ vật chất thì có lẽ cần đến triết luận.Tư duy bao quát có tính thiên về triết luận nhưng yếu về chi tiết thực tiễn của phương đông nếu kết hợp với những ưu điễm trên có thễ cùng song hành đoạn đường còn lại với triết lý tương song và đối ứng vốn là nền tãng của vũ trụ luận đông phương,phãi chăng đây củng là tính nhị nguyên đông-tây trong tất yếu.

Các thuyết khoa học là đỉnh cao của nhân văn,nhưng những người xây dựng ra nó vẫn cho là chưa hoàn chỉnh trong bức tranh mô tã thế giới tự nhiên.Khi kết hợp với nhau thì có những mâu thuẫn có khi trong nội tại lý thuyết,phãi chăng thế giới này vô thường là yếu tính  trong khi con người nhõ bé không thễ vượt qua được quyền lực siêu nhiên đã ấn định như vậy.Đây củng là câu hỏi của bãn thân trong nỗ lực cuối cùng đễ tìm lời giãi đáp.Tất nhiên ý tưỡng và triết lý về bãn thễ vũ trụ  không hẵn là giãi pháp cuối cùng cho bãn chất vấn đề,mà chĩ gợi ý thêm những vấn đề chưa giãi quyết được,rồi sẽ phãi được giãi quyết nếu có quyết tâm và khoa học với mục đích phụng sự nhân loại sẽ phong phú và khách quan hơn.Thời gian không chờ đợi,không trỡ lại và chúng ta dù muốn dù không vẫn phãi hướng về phía trước ….!

Mong các bạn thoãi mái khi đọc bài này và với những bạn nào còn chưa hiễu rõ cái phần khó hiễu nhất của thuyết tương đối là thời gian thì qua bài này nó củng như một cô gái thực ra củng không bí ẫn và trừu tượng lắm khi mình chưa biết rỏ và khi hiễu được rồi thì thế giới đang còn phía trước đễ chinh phục.Chúc các bạn thành công.

Đặng ngọc Thủy


Một góc nhìn khác và một quan điểm mới trong nhận thức bản chất ánh sáng phi Einstein với các quan điễm vật lý truyền thống.

Do có ý định viết một bài dưới tiêu đề có thể lượng tử hóa mô hình vũ trụ (cấp vĩ mô), không phải lượng tử(cấp vi mô) xảy ra bên trong các thiên vân, thiên thễ; dễ giải thích hiện tượ ng quang doppler tương ứng với nghiệm của các phương trình vũ trụ giãn nở đều và gần đây qua kính thiên văn hiện tượng này đang gia tốc. Bài viết này làm nền, sơ lược một số khái niệm cho bài viết trên

Trước đây, trong 1 số bài viết khoa học, sách giáo khoa vật lý đã mô tả các phương trình sóng điện từ của Maxwell và các phương trình vật lý của nhà toán học Poincaré. Hai ông này cho rằng vũ trụ tràn ngập 1 loại vật chất vô hình, siêu cứng, nhờ có nó sóng điện từ(ánh sáng) mới có thể lan truyền trong không gian. Einstein cho là không; thêm nữa gần đây lại xuất hiện các quan điểm về vật chất tối, phản vật chất. Nó quả thực có thật hay không hoặc vốn tự nó đã là như vậy, nhưng chưa được chứng minh và định nghĩa cụ thể.

Bài viết này được xây dựng trên một giả thuyết và xem như một tiên đề. Có một môi trường vật chất tỉnh tại, đẳng hướng trong một khu vực rộng lớn được xem là đối tượng quan sát. Hệ quy chiếu và trục tọa độ gắn vào bất cứ một điểm nào trong đó được xem là tuyệt đối phi quán tính. Môi trường này được đặt tên là trường Néo(mới) giá trị vật lý của điểm trường có thể lấy theo giá trị của một dây(lý thuyết dây) hoặc tương đương với một hạt Neutrino hay đúng nghĩa hơn là hạt có khối lượng ão-năng lượng ẫn. Bản thân các hạt Néo này không có các giá trị tương tác vật lý, có thể xem như không vật chất (vật chất tối). Giá trị vật lý của trường Néo không thễ đo đạc trực tiếp hoặc thễ hiện cụ thễ (đấy chỉ là ý nghĩa tương đối vì khi đặt nó vào khái niệm lượng tử hóa mô hình vũ trụ sẽ có một sai biệt rất nhỏ tương ứng với một miền trong chuyển động sóng vĩ đại mà một chu kì sóng có thễ đến nhiều triệu năm ánh sáng), sóng mật độ trường Néo khác với sóng từ trường hay còn gọi là sóng điện từ; có một quan điểm cho rằng điện trường được giả định xem như là môi trường cho Electron chuyễn dịch trong sóng điện-từ ; Và vũ trụ ngày nay hình thành với khối lượng(năng lượng) tương ứng với sự sụt giảm giá trị vật lý(năng lượng) của trường Néo này. Sự sụt giãm lớn nhất nằm tại tâm khối lượng vật thể; (sự hiện diện của trường Néo có trong nguyên tử nhưng không tạo nên khối lượng nguyên tử). Mặt lõm cong của khái niệm không thời gian cong trong hấp dẫn lớn mà Einstein phát biễu nằm trong khái niệm sự sụt giảm này của trường Néo tại vùng biên của các thiên thễ lớn. Trường Néo theo quan điễm của bài viết này chính là vật chất tối hiện hữu, song hành cùng vũ trụ hiện nay và tràn ngập trong nó. Tuy nhiên, qua các tương tác vật lý trường Néo thể hiện dưới dạng có thể quan sát được hay định tính và định lượng như trường điện từ, trường hấp dẫn(thế dẫn), các dao dộng sóng điện từ, các hạt cơ bản- lượng tử vật chất và vũ trụ thiên vân, thiên thễ. Các giá trị thứ cấp này chuyển động bên trong sự suy giảm của trường. Trường hấp dẫn theo tương quan trên và do vật chất phát ra không có thực, mà chỉ do suy giảm giá trị trường Néo bao trùm xung quanh khối lượng vật chất hiện diện, các thiên thể,… Sự suy giảm tỉ lệ với bình phương khoảng cách giửa thiên thể đến giá trị cơ bản của miền Néo.Lực hấp dẫn theo quan điểm này được thay bằng lực trượt đẩy có từ bên ngoài nguyên tử-vật thể.(Chi tiết trong bài lượng tử mô hình vũ trụ).

Bản chất ánh sáng là gì? Có trừu tượng với khái niệm thời gian co giãn theo vận tốc như quan điễm của Einstein hay không?.

Trong quá trình hấp thụ nhiệt(vật đen) hoặc tương tác với từ trường(vật nguồn, vật bức xạ) các nguyên tử của vật chất dao động các Eletron của nó cũng dao động và thăng giáng qua các quỹ đạo (hấp thụ => max; bức xạ => min các gói lượng tử lan truyền đi theo quan điểm Planck) theo quan điểm bài viết này. Sự thăng giáng trên các quỹ đạo của Electron tạo nên sự thăng giáng từ trường được cho là gắn liền với nó đã từ hóa(cảm từ) các hạt của trường Néo gần sát biên của nó, giống như hiện tượng cảm ứng từ trong điện từ học tạo nên sự thăng giáng cường độ từ trên mỗi hàng từ ( tính đồng thời-số lượng hạt từ-biên độ) qua thời gian và làm cho các hạt này định dạng theo chiều của một moment từ xác định có tính lưỡng cực như một nam châm, đồng thời đổi chiều moment từ theo chiều thăng giáng của Electron. Hiện tượng này làm mất năng lượng trường sơ cấp làm cho nó trở lại định dạng các hạt Néo cơ bản. Sự phục hồi giá trị cũ được cung cấp bởi năng lượng hấp thụ. Hiện tượng cảm từ( và mất từ) được truyền đi với tốc độ ánh sáng. Các hạt Néo được từ hóa có tính lưỡng cực vì vậy được xem là trung tính nên nó không tương tác với từ trường vốn cùng bản chất với nó. Hiện tượng bẻ cong ánh sáng khúc xạ khi đi từ vùng mật độ đậm đặc cơ bản theo miền của trường Néo đến vùng loãng có trường hấp dẫn cận biên các thiên thễ lớn là do sự thay đổi mật độ hạt Néo này. Sự thăng giáng nhanh hay chậm đúng bằng một chu kỳ của một bước sóng tương ứng với tần số ánh sáng đơn sắc hoặc sóng viba. Các hàng từ hóa với cường độ từ dao động tăng giảm, cảm từ các hạt Néo cơ bản ở cận biên và cứ như thế lan truyền đi. Dao động này có dạng hàm Sin. Cụ thể hơn qua một mặt cắt S có sự tăng giảm cường độ từ theo hàm Sin giống như tăng giảm áp suất của sóng âm- sóng nước với các phân tử vật chất chỉ dao động tại chỗ nhưng sóng áp suất vẫn lan truyền như một quán tính.Có thể xem xét lại thí nghiệm kinh điển của Michelson-Morley mặc dầu vận tốc quán tính được tách ra lúc ánh sáng phãn xạ qua gương bán mạ nhưng các vạch giao thoa vẫn đồng pha đưa đến quan điểm nhận thức tương đối tính trong vận tốc ánh sáng.

Photon được tạo nên bởi sự giao thoa ngang của các sóng chung tần số; Cường độ trường cực đại nằm giữa một bước sóng của các lớp sóng, thì mô hình Photon xem như 1 khối mà cường độ từ trường cực tiễu ở bên ngoài và cực đại ở tâm, năng lượng được xem như tập trung ở nơi này. Khi dịch chuyễn qua một mặt cắt S giá trị cường độ từ trường được biểu diễn qua cáchàm sin (chuổi Fourier). Các Photon có năng lượng khi di chuyển nhưng không thể hiện khối lượng, mặc dù là có (do mật độ hạt trường đã được từ hóa), vì có tính lưỡng cực, trung tính nên không tương tác nhiều trong hấp dẫn(có trọng lượng). Các Photon trong trạng thái tĩnh đã thễ hiện tính sóng qua mô hình cường độ tăng giảm và tính hạt qua cường độ từ trường cực đại tại tâm(giữa một lớp sóng). Vì vậy nó phù hợp với thuyết lưỡng tính sóng- hạt của Louis de Broglie. Khi lan truyền, ánh sáng chỉ là các Photon này, không có sóng điện từ nào kèm theo nó, đồng nghĩa là có hai giá trị đồng thời trong một cụ thể chứ không phải là một hạt di chuyển cùng với một sóng điện từ hay là hạt di chuyển và dao động theo kiểu sóng.

Hiện tượng cảm từ các hạt của trường Néo thứ  cấp không tiêu tốn năng lượng do bản thân trường này có giá trị tương tác vật lý tương đương bằng không. Nó chỉ chuyển năng lượng(từ trường) từ bản thân qua hạt khác ở lớp trước và hấp thụ lại ở lớp sau với tốc độ ánh sáng.Hình ãnh này có phần nào giống như bãng đèn led với các hạt Néo là các bóng led và ánh sáng di chuyễn tuần tự như trên.

Nếu không có trường Néo thì một bóng đèn điện có điện cũng không phát sáng tương tự như nếu không có không khí loa cũng không phát âm dù đang dao động.

Ánh sáng hay các bức xạ từ theo quan điễm này không phải là bức xạ vật chất lấy ra từ vật chất nguồn nên không có sự sụt giảm về khối lượng vì nó được tạo ra và truyền đi từ môi trường bên ngoài vật nguồn(vật đen) vật nguồn chỉ kích thích và tương tác (Chuyễn năng lượng) cho nên nó di chuyễn với tốc độ là hằng số trong một hệ quy chiếu với trục tọa độ tuyệt đối (tính tương đối được xét với giá trị rất nhõ ở chuyễn động sóng vĩ đại và đây cũng là sự chuyễn hệ quy chiếu quán tính từ trường cơ bãn Néo sang hệ quy chiếu lượng tử-từng photon) không phụ thuộc vào bất kì hệ quy chiếu quán tính nào vì vậy không cần dùng phép biến đổi Lorentz trong các phương trình của Einstein.(có thễ đặt trường Néo trong hệ thống không-thời gian khác với hệ thống không – thời gian của vũ-trụ hiện nay).Tính tương-đối không-thời gian Einstein chỉ có giá trị trong một lượng tữ theo tốc độ thăng giáng cường độ từ trường cúa từng hàng (tính đồng thời-số lượng các hạt cãm từ-biên độ sóng) trong một bước sóng theo hàm sin.Sự chuyễn động photon trong môi trường có các giá trị đại lượng về thời gian như truyền thống.Do loại được lực hấp dẫn trong vật chất cho nên có thễ thống nhất ba lực tương tác còn lại trong nguyên tữ. Lực hấp dẫn trong bài viết này chỉ là tương tác trượt đẫy trong môi trường Néo của vật chất từ vùng mật độ cao giãm dần đến vùng mật độ thấp và có gia tốc.

Việc  đưa ra ánh sáng bãn chất tối của  ánh sáng và vật chất đã phần nào xây dựng nhận thức tương quan luận hư vô và hiện thực trong triết học vũ trụ quan.Vì cùng một bản chất cho nên thế giới tự nhiên có những thễ hiện một mặt nào giống nhau, bất biến và có lẽ không thễ sáng tạo thêm một cách riêng nào cho mình.

Ea-Hleo Daklak.ngày 7 tháng 9 năm 2009
người viết
Đặng ngọc Thủy


.

Mời đọc thêm