Hiệp Khách Quậy Sự khám phá ra sự dãn nở đang tăng tốc của Vũ trụ là một cột mốc quan trọng trong nghiên cứu vũ trụ học, tương đương với sự khám phá ra những biến thiên nhiệt độ nhỏ trong bức xạ Nền Vi sóng Vũ trụ (CMB) với vệ tinh COBE (Giải Nobel Vật lí 2006, John Mather và George Smoot). Bằng cách nghiên cứu CMB,... Xin mời đọc tiếp.
Giới thiệu
Sự khám phá ra sự giãn nở đang tăng tốc của Vũ trụ là một cột mốc quan trọng trong nghiên cứu vũ trụ học, tương đương với sự khám phá ra những biến thiên nhiệt độ nhỏ trong bức xạ Nền Vi sóng Vũ trụ (CMB) với vệ tinh COBE (Giải Nobel Vật lí 2006, John Mather và George Smoot). Bằng cách nghiên cứu CMB, chúng ta có thể tìm hiểu lịch sử buổi đầu của Vũ trụ và các nguồn gốc của cấu trúc, trong khi lịch sử giãn nở của Vũ trụ cho chúng ta hiểu về sự tiến hóa của nó và có lẽ cả số phận tối hậu của nó.
Sự giãn nở của vũ trụ được khám phá bởi Vesto Slipher, Carl Wirtz, Knut Lundmark, Georges Lemaître và Edwin Hubble vào thập niên 1920. Tốc độ giãn nở phụ thuộc vào lượng năng lượng – một Vũ trụ chỉ chứa vật chất cuối cùng sẽ chậm lại do lực hút hấp dẫn. Tuy nhiên, các quan sát sao siêu mới (SNe) loại Ia ở khoảng cách chừng 6 tỉ năm ánh sáng của hai nhóm nghiên cứu độc lập nhau, đứng đầu bởi Saul Perlmutter, và bởi Brian Schmidt cùng Adam Riess, cho biết hiện tại, tốc độ giãn nở đó, thay vậy, đang tăng lên.
Trong khuôn khổ của mô hình vũ trụ học chuẩn, sự tăng tốc như thế thường được quy cho năng lượng chân không (đôi khi gọi là “năng lượng tối”) – dựa trên số liệu phù hợp từ SNe, các quan sát dị hướng ở CMB, và khảo sát sự tập trung thành đám của các thiên hà – chiếm khoảng 73% tổng mật độ năng lượng của Vũ trụ. Trong số phần còn lại, khoảng 23% là do một dạng vật chất chưa biết (gọi là “vật chất tối”). Chỉ khoảng 4% mật độ năng lượng tương ứng với vật chất bình thường như các nguyên tử.
Trong cuộc sống hàng ngày, các hiệu ứng của năng lượng chân không là hết sức nhỏ nhưng có thể đo được – ví dụ, được quan sát thấy ở dạng các dịch chuyển mức năng lượng của nguyên tử hydrogen, và dịch chuyển Lamb (Giải Nobel Vật lí 1955).
Sự phát triển của Vũ trụ được mô tả bởi thuyết tương đối tổng quát của Einstein. Trong các lí thuyết trường tương đối tính, phần đóng góp của năng lượng chân không được cho bởi một biểu thức giống về mặt toán học với hằng số vũ trụ học nổi tiếng trong lí thuyết của Einstein. Câu hỏi số hạng năng lượng chân không có thật sự độc lập với thời gian như hằng số vũ trụ học, hay biến thiên theo thời gian, hiện nay là một chủ đề nghiên cứu rất nóng.
Thuyết tương đối tổng quát và Vũ trụ
Các ngôi sao trên bầu trời đêm luôn luôn mê hoặc loài người chúng ta. Chúng ta chỉ có thể đoán rằng con người từ thời cổ đại đã lí giải những gì khi họ nhìn thấy các ngôi sao trở lại vị trí cũ trên bầu trời hàng đêm. Chúng ta biết các nhà triết học Hi Lạp đã đề xuất một mô hình thiên văn nhật tâm với Mặt trời ở chính giữa và các hành tinh quay tròn xung quanh nó từ hồi thế kỉ thứ 3 trước Công nguyên, nhưng chính Nicolaus Copernicus, người sống vào thế kỉ thứ 16, mới phát triển phiên bản hiện đại đầu tiên của một mô hình vũ trụ. Nó đã dẫn dắt thiên tài của Galileo Galilei vào đầu thế kỉ sau đó thật sự quan sát và tìm hiểu những thực tế căn bản, chế tạo một trong những chiếc kính thiên văn đầu tiên dùng cho thiên văn học và từ đó đặt nền tảng cho thiên văn học hiện đại. Trong 300 năm tiếp sau đó, các nhà thiên văn đã thu thập những bảng quan sát ngày một ấn tượng hơn của những ngôi sao nhìn thấy. Trong hệ thống Copernicus, các ngôi sao được cho là gắn cố định trên một mặt cầu ở xa và không có số liệu quan sát nào cho biết có cái gì trái ngược lại. Vào năm 1718, Edmund Halley phát hiện thấy các ngôi sao thật sự có thể chuyển động trên bầu trời, nhưng người ta tin rằng chuyển động này xảy ra trong một vũ trụ tĩnh, cố định. Trong suốt thế kỉ 18 và 19, sự nghiên cứu các thiên thể được xây dựng trên những nền tảng vững chắc với các định luật nổi tiếng của Kepler và Newton.
Tháng 11 năm 1915, Albert Einstein (Giải Nobel Vật lí 1921) công bố lí thuyết của ông cho sự hấp dẫn, cái ông đặt tên là Thuyết tương đối Tổng quát (GR) 1
Vũ trụ đang giãn nở
Năm 1917, Einstein đã áp dụng các phương trình GR cho toàn bộ Vũ trụ 3
Vào đầu thập niên 1920, nhà toán học và vật lí học người Nga Alexander Friedmann đã nghiên cứu bài toán động lực học của Vũ trụ về cơ bản sử dụng những giả thuyết giống như Einstein, và đã tìm ra vào năm 1922 rằng nghiệm trạng thái tĩnh của Einstein thật ra là không bền 4
Vào đầu thế kỉ 20, đa số người ta tin rằng toàn bộ Vũ trụ chỉ gồm thiên hà của chúng ta, Dải Ngân hà. Nhiều tinh vân đã được tìm thấy trên bầu trời được cho là những đám mây khí trong những phần xa xôi của Dải Ngân hà. Năm 1912, Vesto Slipher 7
Trong những năm sau đó, bản chất của tinh vân xoắn ốc khiến người ta tranh cãi kịch liệt. Có thể có nhiều hơn một thiên hà hay không? Câu hỏi này cuối cùng đã được giải quyết vào thập niên 1920 cùng với Edwin Hubble là nhân vật chủ đạo. Sử dụng kính thiên văn mới 100-inch tại Đỉnh Wilson, Hubble đã có thể phân giải từng ngôi sao trong tinh vân Andromeda và một số tinh vân xoắn ốc khác, phát hiện thấy một số trong những ngôi sao này là sao biến quang, mờ đi và sáng lên với chu kì đều đặn 8
Sao biến quang là những vật thể khổng lồ đang dao động với một mối liên hệ đặc trưng giữa độ sáng và khoảng thời gian giữa những cực đại độ sáng, do nhà thiên văn học người Mĩ Henrietta Leavitt phát hiện ra vào năm 1912. Mối liên hệ độ sáng-chu kì này, cùng với những sao biến quang ở gần có khoảng cách đã được biết từ những phép đo thị sai, cho phép xác định độ sáng thật sự của một sao biến quang từ khoảng thời gian của nó – và vì thế, khoảng cách của nó (với sai số chừng 10%) từ định luật nghịch đảo bình phương.
Hubble sử dụng mối liên hệ của Leavitt để ước tính khoảng cách đến các tinh vân xoắn ốc, kết luận rằng chúng ở quá xa nên không thể là một bộ phận của Dải Ngân hà và vì thế phải là những thiên hà riêng. Kết hợp những phép đo riêng của ông và của những nhà thiên văn học khác, Hubble có thể vẽ đồ thị khoảng cách đến 46 thiên hà và tìm thấy một sự tỉ lệ thô của khoảng cách của một vật thể với độ lệch đỏ của nó. Năm 1929, ông công bố cái ngày nay gọi là ‘định luật Hubble’: khoảng cách đến một thiên hà tỉ lệ với khoảng cách lùi ra xa của nó 9
Mặc dù số liệu của Hubble khá thô và không chính xác như số liệu hiện đại, nhưng định luật Hubble được chấp nhận rộng rãi, và Einstein phải thừa nhận rằng Vũ trụ thật sự đang giãn nở. Người ta nói, ông đã gọi việc đưa ra hằng số vũ trụ học là “sai lầm lớn nhất” của cuộc đời ông. Từ đây về sau, tầm quan trọng của hằng số vũ trụ học lu mờ dần, mặc dù nó có xuất hiện trở lại lúc này lúc khác.
Điều cần lưu ý đối với các ghi chép lịch sử là Lemaître trong bài báo năm 1927 của ông suy luận chính xác ra các phương trình cho một Vũ trụ đang giãn nở đã thu được một mối liên hệ giống như của Hubble và về cơ bản đã tìm thấy hằng số tỉ lệ (“hằng số Hubble”) giống như Hubble đã tìm hai năm sau đó. Sau khi kết quả của Hubble được phổ biến, Arthur Eddington đã dịch bài báo của Lemaître sang tiếng Anh vào năm 1931, không có những phần nói về định luật Hubble. Để hồi đáp cho Eddington, Lemaître 10
Kết quả của Hubble và những người khác từ năm 1926 đến 1934, mặc dù không chính xác cho lắm, là những dấu hiệu đáng khích lệ của một Vũ trụ đồng nhất và đa số các nhà khoa học nhanh chóng chấp nhận quan điểm trên. Khái niệm một Vũ trụ đồng nhất và đẳng hướng còn gọi là Nguyên lí Vũ trụ học. Nguyên lí này có từ thời Copernicus, người phát biểu rằng Trái đất nằm ở một nơi không có gì đặc biệt hay ưu tiên trong Vũ trụ. Theo ngôn ngữ hiện đại, người ta giả định rằng Vũ trụ trông giống hệt nhau ở những cấp bậc vũ trụ đối với mọi nhà quan sát, độc lập với vị trí của họ và độc lập với hướng mà họ nhìn. Giả thuyết của Nguyên lí Vũ trụ học vốn có trong tác phẩm của Friedmann và Lemaître nhưng hầu như không được biết tới trong phần lớn xã hội khoa học. Nhờ tác phẩm của Howard Robertson vào năm 1935-1936 13
Robertson và Walker xây dựng một metric khái quát của không-thời gian phù hợp với Nguyên lí Vũ trụ học và chứng tỏ rằng nó không bị ràng buộc đặc biệt với các phương trình Einstein như Friedmann và Lemaître đã giả thuyết. Từ thập niên 1930, bằng chứng cho giá trị của Nguyên lí Vũ trụ học ngày một củng cố vững chắc hơn và với khám phá năm 1964 ra bức xạ CMB của Arno Penzias và Robert Wilson (Giải Nobel Vật lí 1978), câu hỏi đó cuối cùng đã được giải quyết 15
Còn tiếp Phần 2
Theo NobelPrize.Org