Robert Day Allen (1927-1986)

Hiệp Khách Quậy Robert Day Allen là một nhà hiển vi học nổi tiếng, đồng thời là một nhà nghiên cứu lỗi lạc về các quá trình tế bào động, và là người đồng phát triển kính hiển vi tương phản video nâng cao (VEC), một cải tiến của dạng bình thường của kính hiển vi tương phản giao thoa vi sai (DIC). Xin mời đọc tiếp.

Robert Day Allen là một nhà hiển vi học nổi tiếng, đồng thời là một nhà nghiên cứu lỗi lạc về các quá trình tế bào động, và là người đồng phát triển kính hiển vi tương phản video nâng cao (VEC), một cải tiến của dạng bình thường của kính hiển vi tương phản giao thoa vi sai (DIC). Ông còn là giáo sư tại trường Dartmouth College và Phòng thí nghiệm Sinh vật học Đại dương (MBL) ở Wood's Hole, Massachusetts. Ông cho xuất bản rất nhiều tác phẩm khoa học trong quãng đời sự nghiệp của mình. Một số đóng góp khoa học quan trọng nhất của ông được thực hiện với vợ của ông và là nhà khoa học đồng chí Nina Strömgren Allen.

Vào giữa khóa dạy hiển vi quang học, khóa hè ngắn hạn, tại Phòng thí nghiệm Sinh vật học Đại dương, vợ chồng Allens, khi ấy đều là nhân viên tại Dartmouth, đã thực hiện một khám phá bất ngờ. Khi Nina Strömgren Allen và Jeff Travis gắn một video camera và truyền hình vào kính hiển vi để cho phép Robert Allen trình chiếu cho toàn lớp học xem đồng thời, họ phát hiện thấy những cấu trúc dưới độ phân giải có thể được ghi ảnh với sự tương phản vi sai video bình thường không quan sát thấy với những độ phân giải sẵn có khi sử dụng kính hiển vi ánh sáng bình thường. Mặc dù kính hiển vi điện tử có thể thể hiện những vật thể còn nhỏ hơn nữa, nhưng vật chuẩn bị phải đặt cố định. Kĩ thuật hiển vi video mà Allens phát triển có khả năng ghi ảnh những mẫu vật còn sống và đang di động.

Cùng với Georges Nomarski và George B. David, Robert Day Allen đã hỗ trợ Công ti Quang học Carl Zeiss phát triển kính hiển vi giao thoa vi sai Nomarski dùng cho các ứng dụng ánh sáng truyền qua. Trong một bài báo nổi tiếng đăng trên tờ Zeitschrift für wissenschaftliche Mikroskopie und mikroskopische Technik, Allen và các đồng sự đã vạch rõ các nguyên lí cơ bản của kĩ thuật DIC và giải thích rõ sự tạo ảnh.

Robert Allen hợp tác với Nina Strömgren Allen cải tiến camera và cấu hình kính hiển vi theo kiểu cho phép độ phân giải, độ tương phản, và độ phóng đại lớn nhất. Cặp đôi trên và Shinya Inoué, người khi ấy là nhà khoa học khách mời tại MBL và là giảng viên thỉnh giảng trong khóa dạy hiển vi học của cặp đôi Allen, đã mô tả phương pháp mới đó trong cùng một cuộc họp của Hội Sinh học Tế bào Mĩ. Năm 1982, cặp đôi Allen đã cải tiến công trình của họ bởi việc ghi ảnh video kĩ thuật số và sau đó khai thác mộ bộ nhớ khung để phân tích và định lượng hình ảnh. Vào ngày 25 tháng 10 năm 1983, cặp đôi trên đã nhận được bằng sáng chế Mĩ cấp cho sự phát triển của họ về kính hiển vi ánh sáng Nâng cấp Video Allen.

Kính hiển vi video, dùng độc lập hoặc ghép đôi với những hệ quang học tương phản giao thoa vi sai khác, ngày nay được sử dụng rộng rãi trong các phòng thí nghiệm trên khắp thay đổi và tỏ ra đặc biệt hữu ích trong sự nghiên cứu sinh học tế bào. Thí dụ, kĩ thuật trên đã cho phép người ta quan sát trực tiếp các vi ống, và cuối cùng dẫn tới phát hiện ra động cơ phân tử kinesin. Ngoài ra, Allen còn có thể hình dung ra các vật dưới giới hạn phân giải của kính hiển vi quang học và thường chỉ có thể quan sát thấy với kính hiển vi điện tử.

Năm 1986, Allen qua đời vì bệnh ung thư. Học bổng Robert Day Allen, do Phòng thí nghiệm Sinh vật học Hải Dương trao, được thành lập để tưởng nhớ ông và được trao hàng năm cho một nhà nghiên cứu trẻ chuyên nghiên cứu về độ linh động tế bào và giải phẫu học.

Nguồn: magnet.fsu.edu

Bài trước | Bài kế tiếp

Mời đọc thêm