Hiệp Khách Quậy Mặc dù vật lí học không được xem là một ngành khoa học riêng mãi cho đến đầu thế kỉ mười chín, nhưng người ta đã nghiên cứu vai trò của chuyển động, năng lượng và lực trong vũ trụ trong hàng nghìn năm trời. Những tư liệu cổ xưa nhất của tư duy nghiêm túc hướng tới vật lí học, nhất là chuyển động của... Xin mời đọc tiếp.
CÁC NHÀ VẬT LÍ NỔI TIẾNG
Những nhà vật lí đầu tiên là ai?
Mặc dù vật lí học không được xem là một ngành khoa học riêng mãi cho đến đầu thế kỉ mười chín, nhưng người ta đã nghiên cứu vai trò của chuyển động, năng lượng và lực trong vũ trụ trong hàng nghìn năm trời. Những tư liệu cổ xưa nhất của tư duy nghiêm túc hướng tới vật lí học, nhất là chuyển động của các hành tinh, có từ thời thịnh hành của những nền văn minh cổ Trung Hoa, Ấn Độ, Ai Cập, Trung Mĩ, và Babylon. Các triết gia Hi Lạp Plato và Aristotle đã phân tích chuyển động của các vật, nhưng không tiến hành các thí nghiệm để chứng minh hoặc bác bỏ quan niệm của họ.
Người không chuyên vật lí sử dụng vật lí hàng ngày để làm những công việc gì?
Mọi công việc đều có liên quan nhất định với vật lí học, nhưng có một số ví dụ nhiều người sẽ không nghĩ là nhạy cảm với vật lí học. Các vận động viên, cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư, sử dụng các nguyên lí vật lí học mọi lúc. Các định luật của chuyển động ảnh hưởng đến cách quả bóng bị đập và ném, và cái xảy ra khi vận động viên chặn cản, chạy và nhảy. Một vận động viên và huấn luyện viên càng am hiểu nhiều và sử dụng kiến thức vật lí của họ trong môn thể thao của họ, thì người vận động viên đó sẽ càng giỏi.
Va chạm xe cộ là đối tượng áp dụng của các định luật vật lí, và những người tái dựng hiện trường va chạm sẽ sử dụng các khái niệm vật lí như động lượng, ma sát, và năng lượng trong công việc của mình. Điện tử học hiện đại, từ ti vi và máy vi tính đến điện thoại thông minh và máy chơi nhạc, phụ thuộc vào các ứng dụng của vật lí học. Mạng điện thoại và mạng máy tính được kết nối bởi quang học sợi sử dụng các nguyên lí khúc xạ ánh sáng để truyền ánh sáng đi xa hàng nghìn dặm.
Các phương pháp chụp ảnh y khoa hiện đại, bao gồm tia X, chụp quét CT, siêu âm, PET, và chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI), đều phụ thuộc vào vật lí học. Bác sĩ, điều dưỡng viên, và kĩ thuật viên trong bệnh viện và các trung tâm y tế phải có một kiến thức nhất định về những phương pháp này để lựa chọn dụng cụ tốt nhất và giải thích các kết quả.
Aristotle có những đóng góp gì cho vật lí học?
Aristotle là nhà triết học và nhà khoa học người Hi Lạp sống thọ 62 tuổi vào thế kỉ thứ tư trước Công nguyên. Ông là học trò của Plato và là một học giả lỗi lạc trong các lĩnh vực sinh học, vật lí học, toán học, triết học, thiên văn học, chính trị học, tôn giáo học và giáo dục học. Về vật lí học, Aristotle tin rằng có năm nguyên tố: đất, không khí, lửa, nước và nguyên tố thứ năm, gọi là aether, từ đó cấu tạo nên tất cả các vật trong trời đất. Ông tin rằng các nguyên tố này chuyển dịch để biến hóa lẫn nhau. Ông phát biểu rằng nếu bỏ đi tất cả các lực, thì một vật không thể chuyển động. Như vậy chuyển động, cho dù không có sự thay đổi tốc độ hoặc hướng, đòi hỏi một lực liên tục. Ông tin rằng chuyển động là kết quả của sự tương tác giữa một vật và môi trường mà nó dịch chuyển.
Xuyên suốt thế kỉ thứ ba trước Công nguyên, và sau đó, các thành tựu thực nghiệm vật lí học được tiến hành ở các đô thị như Alexandria và các đô thị chính khác ở khắp vùng Địa Trung Hải. Archimedes (khoảng 287 – 212 tCN) đã đo khối lượng riêng của các vật bằng cách đo phần nước bị vật chiếm chỗ. Aristarchus xứ Samos được vinh danh với phép đo tỉ số khoảng cách từ Trái đất đến Mặt trời và đến Mặt trăng, và tán thành hệ nhật tâm. Erathosthenes đã xác định chu vi của Trái đất bằng cách sử dụng bóng nắng và lượng giác. Hipparchus khám phá sự tiến động của điểm xuân/thu phân. Và cuối cùng, vào thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên, Claudius Ptolemy đề xuất một trật tự chuyển động hành tinh trong đó mặt trời, các sao, và mặt trăng quay xung quanh Trái đất.
Sau khi Đế chế La Mã suy vong, phần lớn sách vở được viết bởi các nhà khoa học Hi Lạp ngày xưa biến mất. Vào những năm 800, dưới thời trị vì của các vua Hồi giáo, nhiều sách vở còn sót lại đã được sưu tập và biên dịch sang tiếng Arab. Từ đó đến khoảng năm 1200, một số nhà khoa học ở các nước Hồi giáo đã chứng minh các sai sót trong nền vật lí học Aristotle. Bao gồm trong nhóm này là Alhazen, Ibm Shakir, al-Biruni, al-Khazini, và al-Baghdaadi, chủ yếu là các thành viên thuộc Ngôi nhà Thông thái ở Baghdah. Họ đã báo trước các quan niệm mà Copernicus, Galileo, và Newton sẽ phát triển đầy đủ hơn sau này.
Bất chấp những thách thức này, nền vật lí học Aristotle vẫn trị vì ở các trường đại học châu Âu sang tận cuối thế kỉ mười bảy.
Ai là người sáng lập phương pháp khoa học?
Ibn al-Haitham (ở châu Âu còn được gọi là Alhazen hay Alhacen) sinh năm 965 và mất năm 1038. Ông sinh ra ở Basra, Ba Tư (nay là Iraq) và qua đời ở Cairo, Ai Cập. Ông đã viết 200 đầu sách, 55 quyển trong số đó còn lưu giữ được. Chúng bao gồm quyển sách quan trọng nhất của ông, Sách Quang học, và các sách về cơ học, thiên văn học, hình học và lí thuyết số. Ông nổi tiếng là người sáng lập ra phương pháp khoa học và vì những đóng góp của ông cho triết học và tâm lí học thực nghiệm.
Sổ tay Giải đáp Thắc mắc Vật lí
Paul W. Zitzewitz | Trần Nghiêm dịch
<< Phần trước | Phần tiếp theo >>