Trong một cuộc trốn t́m, Niu tơn đă đứng trên 1 ô vuông có diện tích 1 mét. Khi người khác t́m ra ḿnh, Niu tơn bảo ḿnh là Pascal!?

Chú thích: "Niu tơn trên 1 mét là Pat can"

 

NHÀ BÁC HỌC ISAAC NEWTON

Newton sinh ngày 25 tháng 12 năm 1642 ở làng Woolsthorpe, quận Lincol, nước Anh. Cha của Newton mất từ trước khi Newton được sinh ra. Khi Ông được 3 tuổi, mẹ Ông tái giá và bà ngoại của Ông mang Ông về dạy dỗ. Ông bắt đầu việc học ở thị trấn lân cận và khi Ông lên mười th́ được gửi đến trường cấp hai ở gần Grantham. Trong thời gian đi học tại đây, Ông sống ở nhà một người duợc sỹ tên là Clark, người đă có ảnh hưởng đến niềm đam mê làm thí nghiệm hoá học trong suốt cuộc đời của Ông. Newton là một chàng trai trẻ rất trầm lặng và khéo tay. Newton tạo ra đồng hồ mặt trời, mô h́nh cối xay gió, đồng hồ nước, xe ngựa gỗ và thả diều với những cái đèn lồng gắn ở đuôi. Tuy nhiên Ông đă không chú ư lắm đến việc học ở trường như sau này Ông kể lại.

Vào năm 1656, mẹ của Ông trở về Woolsthorpe sau khi người chồng thứ hai của bà mất đi và bắt Newton phải thôi học về làm ruộng. Tuy nhiên Newton thể hiện là không có tư năng khiếu nào trong công việc đồng áng và theo một giai thoại th́ Newton được nh́n thấy khi đang măi mê đọc sách trong một hàng rào trong khi đáng lư ra Ông phải đang ở chợ. May mắn thay, người thầy cũ của Newton nhận thấy được tài năng của Ông và đă thuyết phục mẹ Ông cho phép Ông theo học ở trường đại học Cambridge. Vào tháng 6 năm 1661, Newton theo học ở trường Trinity ở Cambridge, ở đây Ông nghiên cứu số học, h́nh học, lượng giác và sau này thiên văn học và quang học. Ông đă nhận được rất nhiều ảnh hưởng từ nhà toán học và thần học xuất chúng Isaac Barraw lúc bấy giờ là giáo sư toán học ở trường. Barraw nhận ra được thiên bẩm của Newton và đă làm tất cả những ǵ có thể làm được để vun đắp tài năng ấy. Newton giành được học vị cữ nhân vào tháng giêng năm 1665.

Khi Newton đang đi học ở trường đại học th́ có bệnh dịch nên các trường phải ngừng giảng dạy, Newton trở về làng. Có giai thoại kể lại rằng, một hôm Newton đang đọc sách dưới gốc cây táo, bỗng thấy quả táo từ trên cây rơi xuống. Hiện tượng này đặt cho Ông nhiều điều nghi vấn. Rồi từ đó Ông t́m ra định luật Vạn vật hấp dẫn. Tất nhiên Newton phải trải qua một quá tŕnh nghiên cứu lâu dài mới t́m ra định luật đó chứ không phải chỉ do một hiện tượng quả táo rụng. Khi ấy Newton mới 30 tuổi. Giai thoại này đă được thi hào người Pháp Voltaire ghi lại lần đầu tiên khi ông trích dẫn lời người cháu gái của Newton.

Đă hơn 300 năm qua, môn cơ học của Newton đă và đang phát triển ngày càng rộng hơn. Các định luật của Newton là một trong những định luật cơ bản trong vật lư học. Newton c̣n có những đóng góp trong nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên khác như: thiên văn, quang học và toán học.

 

VIỆC VIẾT CUỐN PRINCIPIA(NHỮNG NGUYÊN LƯ)

Khi về già, Newton nói rằng những năm đỉnh cao của ông là 1665 và 1666. Trong khi nạn dịch hạch tràn qua nước Anh, Newton lui về trang trại ở nông thôn. Ở đó ông phát minh ra giải tích, hoàn thành các công tŕnh trước đó về lư thuyết hấp dẫn, và khám phá ra ánh sáng trắng là tập hợp của nhiều màu – tất cả chỉ trong ṿng 18 tháng!

Việc viết cuốn Principia bắt nguồn từ một cuộc tranh luận trong vật lư. Cuộc tranh luận là về bản chất của lực hấp dẫn và xảy ra vào tháng giêng năm 1684 giữa ba người: Christopher Wren (1632-1732), ngày nay được nhớ như là một kiến trúc sư chuyên về nhà thờ và các công tŕnh công cộng, đặc biệt là nhà thờ St. Paul ở London; Robert Hooke, lúc bấy giờ là chủ tịch Hội hoàng gia; và Edmund Halley (1656-1742), một nhà toán học và thiên văn trẻ. Chính Halley là người vào năm 1705 đă dự đoán sự quay lại của sao chổi đă xuất hiện năm 1682, và sao chổi này, khi xuất hiện lại vào năm 1758, đă được đặt tên là sao chổi Halley.

Wren đưa ra một giải thưởng cho một trong hai người kia nếu người đó có thể đưa ra bằng chứng rằng lực giữa mặt trời và các hành tinh tuân theo định luật tỉ lệ nghịch với b́nh phương khoảng cách. Hooke khẳng định ông đă làm được điều đó, nhưng không thể đưa ra bằng chứng. V́ vậy Halley t́m kiếm sự giúp đỡ của Newton, lúc đó là một giáo sư ở đại học Cambridge. Trong chuyến viếng thăm, Halley hỏi Newton quỹ đạo của các hành tinh sẽ ra sao nếu lực hút bởi mặt trời tỉ lệ nghịch với b́nh phương khoảng cách. Newton trả lời rằng các quỹ đạo đó sẽ là đường elip và nói thêm rằng ông đă t́m ra chứng minh toán học cho điều này. Newton không t́m ra bản thảo của chứng minh nhưng hứa sẽ tính toán lại và gởi cho Halley. Vào tháng mười một, Halley nhận được bản thảo từ Newton, và nó kích động ông đến nỗi ông đề nghị Newton công bố bằng cách gửi tới Hội hoàng gia. Newton làm điều đó dưới dạng một tiểu luận, De Motu, dưạ trên một phần các tính toán trước đó. Trong công tŕnh này, ông chứng tỏ rằng nếu “một vật thể chuyển động theo h́nh elip th́ lực hướng tâm sẽ tỉ lệ nghịch với b́nh phương khoảng cách”. Đây là lời giải của vấn đề quỹ đạo các hành tinh, là câu trả lời thực sự đầu tiên cho câu hỏi “Lực hút của mặt trời với các hành tinh là cái ǵ?”

Sau khi gởi De Motu tới Hội Hoàng gia, Halley, với sự hỗ trợ của hội, mời Newton viết một bản đầy đủ hơn. Newton hoàn thành tác phẩm này trong ṿng 18 tháng, một thời gian cực kỳ ngắn ngủi cho một tác phẩm vĩ đại như vậy. Ấn bản đầu tiên của Principia xuất hiện vào ngày 5 tháng 7 năm 1687.

Newton viết Principia cho một thiểu số có tŕnh độ cao về khoa học và toán học. Ông cố gắng làm cho nó khó hiểu theo nhiều cách. Người ta nói rằng Newton đă khoe với một người bạn là ông đă viết Principia “thâm thuư” đến mức sao cho Ông sẽ không phải tranh luận với bất cứ ai có học vấn kém hơn. Trái với Galileo dùng ngôn ngữ thường ngày, Newton viết Principia bằng tiếng Latinh, ngôn ngữ quốc tế của giới học thuật thời bấy giờ. Newton không bao giờ cố gắng viết bản tiếng Anh, mặc dù ông sống thêm 40 năm nữa và đă tái bản cuốn sách có sửa chữa vào năm 1717 và 1723. Bản dịch tiếng Anh đầu tiên và cũng là duy nhất được xuất bản bởi Andrew Motte vào năm 1729. Hầu như người ta không biết ǵ về Mote và lư do tại sao ông dịch Principia ra tiếng Anh.

Principia đă và vẫn là cuốn sách khó hiểu, đến nỗi một sử gia đă nói “không biết có cuốn sách nào tầm cỡ tương tự lại có ít độc giả như vậy”. Giống như hầu hết các công tŕnh khoa học chủ chốt của mọi thời, cuốn sách này có những người ủng hộ mạnh mẽ cũng như những người chống đối kịch liệt. Tuy nhiên, các khái niệm của Newton đă được thừa nhận như là phần tổng quát của kiến thức khoa học v́ tính chính xác và hữu ích của chúng.

Ngày nay cơ học Newton vẫn c̣n quan trọng. Ví dụ, được trang bị máy tính hiện đại, vật lư Newton cho phép tính toán đường đi của các phi thuyền tới các hành tinh xa xôi. Vào những năm 1979 và 1980, phi thuyền Voyager đă gởi về các bức ảnh đầy ấn tượng về sao Thổ, sao Mộc, sao Thiên Vương và sao Hải Vương.

H́nh P.402 - Sao Thổ
H́nh P.403 - Hệ mặt trời của chúng ta

 

 

 

 

 

 

(Theo Vật Lí và thế giới quanh ta)


Xem thêm:

Newton vĩ đại hơn Einstein?

Newton và Einstein, hai người khổng lồ cô đơn


Isaac Newton

Về trang chính

 

Sir Isaac Newton

Isaac Newton 46 tuổi Bức vẽ của Godfrey Kneller năm 1689
Isaac Newton 46 tuổi
Bức vẽ của Godfrey Kneller năm 1689

Sinh

4 tháng 1, 1643(1643-01-04) [OS: 25 tháng 12 1642]
Lincolnshire, Anh

Mất

31 tháng 3, 1727 (84 tuổi) [OS: 20 March 1727]
Kensington, London, Anh

Nơi ở

Anh

Quốc tịch

Anh

Ngành

Tôn giáo, Vật lư, Toán học, Thiên văn học, Triết học tự nhiên, Nhà giả kim

Học trường

Trinity College, Cambridge

Người hướng dẫn LATS

Isaac Barrow

Các sinh viên nổi tiếng

Roger Cotes

Nổi tiếng v́

Cơ học Newton
Vạn vật hấp dẫn
Vi phân
Quang học

Isaac Newton (phát âm như Isắc Niu-tơn) là một nhà vật lư, nhà thiên văn học, nhà triết học tự nhiên và nhà toán học vĩ đại người Anh. Theo lịch Julius, ông sinh ngày 25 tháng 12 năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727; theo lịch Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643 và mất ngày 31 tháng 3 năm 1727. Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lư Toán học của Triết lư về Tự nhiên) xuất bản năm 1687, đă mô tả về vạn vật hấp dẫn và 3 định luật Newton, được coi là nền tảng của cơ học cổ điển, đă thống trị các quan niệm về vật lư, khoa học trong suốt 3 thế kỷ tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của các vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi các định luật tự nhiên giống nhau.

Trong cơ học, Newton đưa ra nguyên lư bảo toàn động lượng (bảo toàn quán tính). Trong quang học, ông khám phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu.

Trong toán học, Newton cùng với Gottfried Leibniz phát triển phép tính vi phân và tích phân. Ông cũng đưa ra nhị thức Newton tổng quát.

Năm 2005, trong một cuộc thăm ḍ ư kiến của Hội Hoàng gia về nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử khoa học, Newton vẫn là người được cho rằng có nhiều ảnh hưởng hơn Albert Einstein.

Sự nghiệp

Isaac Newton sinh ra trong một gia đ́nh nông dân. May mắn cho nhân loại, Newton không làm ruộng giỏi nên được đưa đến Đại học Cambridge để trở thành luật sư. Tại Cambridge, Newton bị ấn tượng mạnh từ Euclid, tuy rằng tư duy của ông cũng bị ảnh hưởng bởi trường phái của Roger Bacon và René Descartes. Một đợt dịch bệnh đă khiến trường Cambridge đóng cửa và trong thời gian ở nhà, Newton đă có những phát kiến khoa học quan trọng, dù chúng không được công bố ngay.

Những người có ảnh hưởng đến việc công bố các công tŕnh của Newton là Robert Hooke và Edmond Halley. Sau một cuộc tranh luận về chủ đề quỹ đạo của một hạt khi bay từ vũ trụ vào Trái Đất với Hooke, Newton đă bị cuốn hút vào việc sử dụng định luật vạn vật hấp dẫncơ học của ông trong tính toán quỹ đạo Johannes Kepler. Những kết quả này hấp dẫn Halley và ông đă thuyết phục được Newton xuất bản chúng. Từ tháng 8 năm 1684 đến mùa xuân năm 1688, Newton hoàn thành tác phẩm, mà sau này trở thành một trong những công tŕnh nền tảng quan trọng nhất cho vật lư của mọi thời đại, cuốn Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lư Toán học của Triết lư về Tự nhiên).

Trong quyển I của tác phẩm này, Newton giới thiệu các định nghĩa và ba định luật của chuyển động thường được biết với tên gọi sau này là Định luật Newton. Quyển II tŕnh bày các phương pháp luận khoa học mới của Newton thay thế cho triết lư Descartes. Quyển cuối cùng là các ứng dụng của lư thuyết động lực học của ông, trong đó có sự giải thích về thủy triều và lư thuyết về sự chuyển động của Mặt Trăng. Để kiểm chứng lư thuyết về vạn vật hấp dẫn của ông, Newton đă hỏi nhà thiên văn John Flamsteed kiểm tra xem Sao Thổ có chuyển động chậm lại mỗi lần đi gần Sao Mộc không. Flamsteed đă rất sửng sốt nhận ra hiệu ứng này có thật và đo đạc phù hợp với các tính toán của Newton. Các phương tŕnh của Newton được củng cố thêm bằng kết quả quan sát về h́nh dạng bẹt của Trái Đất tại hai cực, thay v́ lồi ra tại hai cực như đă tiên đoán bởi trường phái Descartes. Phương tŕnh của Newton cũng miêu tả được gần đúng chuyển động Mặt Trăng, và tiên đoán chính xác thời điểm quay lại của sao chổi Halley. Trong các tính toán về h́nh dạng của một vật ít gây lực cản nhất khi nằm trong ḍng chảy của chất lỏng hay chất khí, Newton cũng đă viết ra và giải được bài toán giải tích biến phân đầu tiên của thế giới.

Newton sáng tạo ra một phương pháp khoa học rất tổng quát. Ông tŕnh bày phương pháp luận của ông thành bốn quy tắc của lư luận khoa học. Các quy tắc này được phát biểu trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica như sau:

  1. Các hiện tượng tự nhiên phải được giải thích bằng một hệ tối giản các quy luật đúng, vừa đủ và chặt chẽ.
  2. Các hiện tượng tự nhiên giống nhau phải có cùng nguyên nhân như nhau.
  3. Các tính chất của vật chất là như nhau trong toàn vũ trụ.
  4. Một nhận định rút ra từ quan sát tự nhiên chỉ được coi là đúng cho đến khi có một thực nghiệm khác mâu thuẫn với nó.

Bốn quy tắc súc tích và tổng quát cho nghiên cứu khoa học này đă là một cuộc cách mạng về tư duy thực sự vào thời điểm bấy giờ. Thực hiện các quy tắc này, Newton đă h́nh thành được các định luật tổng quát của tự nhiên và giải thích được gần như tất cả các bài toán khoa học vào thời của ông. Newton c̣n đi xa hơn việc chỉ đưa ra các quy tắc cho lư luận, ông đă miêu tả cách áp dụng chúng trong việc giải quyết một bài toán cụ thể. Phương pháp giải tích mà ông sáng tạo vượt trội các phương pháp mang tính triết lư hơn là tính chính xác khoa học của Aristoteles và Thomas Aquinas. Newton đă hoàn thiện phương pháp thực nghiệm của Galileo Galilei, tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn c̣n được sử dụng cho đến ngày nay trong khoa học. Những câu chữ sau đây trong quyển Opticks (Quang học) của ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với tŕnh bày hiện đại của phương pháp nghiên cứu thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay cho "triết lư về tự nhiên":

Cũng như trong toán học, trong triết lư về tự nhiên, việc nghiên cứu các vấn đề hóc búa cần thực hiện bằng phương pháp phân tích và tổng hợp. Nó bao gồm làm thí nghiệm, quan sát, đưa ra những kết luận tổng quát, từ đó suy diễn. Phương pháp này sẽ giúp ta đi từ các hợp chất phức tạp đến nguyên tố, đi từ chuyển động đến các lực tạo ra nó; và tổng quát là từ các hiện tượng đến nguyên nhân, từ nguyên nhân riêng lẻ đến nguyên nhân tổng quát, cho đến khi lư luận dừng lại ở mức tổng quát nhất. Tổng hợp lại các nguyên nhân chúng ta đă khám phá ra thành các nguyên lư, chúng ta có thể sử dụng chúng để giải thích các hiện tượng hệ quả.

Newton đă xây dựng lư thuyết cơ học và quang học cổ điển và sáng tạo ra giải tích nhiều năm trước Gottfried Leibniz. Tuy nhiên ông đă không công bố công tŕnh về giải tích trước Leibniz. Điều này đă gây nên một cuộc tranh căi giữa Anh và lục địa châu Âu suốt nhiều thập kỷ về việc ai đă sáng tạo ra giải tích trước. Newton đă phát hiện ra định lư nhị thức đúng cho các tích của phân số, nhưng ông đă để cho John Wallis công bố. Newton đă t́m ra một công thức cho vận tốc âm thanh, nhưng không phù hợp với kết quả thí nghiệm của ông. Lư do cho sự sai lệch này nằm ở sự giăn nở đoạn nhiệt, một khái niệm chưa được biết đến thời bấy giờ. Kết quả của Newton thấp hơn γ½ lần thực tế, với γ là tỷ lệ các nhiệt dung của không khí.

Theo quyển Opticks, mà Newton đă chần chừ trong việc xuất bản măi cho đến khi Hooke mất, Newton đă quan sát thấy ánh sáng trắng bị chia thành phổ nhiều màu sắc, khi đi qua lăng kính (thuỷ tinh của lăng kính có chiết suất thay đổi tùy màu). Quan điểm hạt về ánh sáng của Newton đă xuất phát từ các thí nghiệm mà ông đă làm với lăng kính ở Cambridge. Ông thấy các ảnh sau lăng kính có h́nh bầu dục chứ không tṛn như lư thuyết ánh sáng thời bấy giờ tiên đoán. Ông cũng đă lần đầu tiên quan sát thấy các ṿng giao thoa mà ngày nay gọi là ṿng Newton, một bằng chứng của tính chất sóng của ánh sáng mà Newton đă không công nhận. Newton đă cho rằng ánh sáng đi nhanh hơn trong thuỷ tinh, một kết luận trái với lư thuyết sóng ánh sáng của Christiaan Huygens.

Newton cũng xây dựng một hệ thống hoá học trong mục 31 cuối quyển Opticks. Đây cũng là lư thuyết hạt, các "nguyên tố" được coi như các sự sắp xếp khác nhau của những nguyên tử nhỏ và cứng như các quả bi-a. Ông giải thích phản ứng hoá học dựa vào ái lực giữa các thành phần tham gia phản ứng. Cuối đời (sau 1678) ông thực hiện rất nhiều các thí nghiệm hoá học vô cơ mà không ra kết quả ǵ.

Newton rất nhạy cảm với các phản bác đối với các lư thuyết của ông, thậm chí đến mức không xuất bản các công tŕnh cho đến tận sau khi người hay phản bác ông nhất là Hooke mất. Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica phải chờ sự thuyết phục của Halley mới ra đời. Ông tỏ ra ngày càng lập dị vào cuối đời khi thực hiện các phản ứng hoá học và cùng lúc xác định ngày tháng cho các sự kiện trong Kinh Thánh. Sau khi Newton qua đời, người ta t́m thấy một lượng lớn thuỷ ngân trong cơ thể của ông, có thể bị nhiễm trong lúc làm thí nghiệm. Điều này hoàn toàn có thể giải thích sự lập dị của Newton.

Newton đă một ḿnh đóng góp cho khoa học nhiều hơn bất cứ một nhân vật nào trong lịch sử của loài người. Ông đă vượt trên tất cả những bộ óc khoa học lớn của thế giới cổ đại, tạo nên một miêu tả cho vũ trụ không tự mâu thuẫn, đẹp và phù hợp với trực giác hơn mọi lư thuyết có trước. Newton đưa ra cụ thể các nguyên lư của phương pháp khoa học có thể ứng dụng tổng quát vào mọi lĩnh vực của khoa học. Đây là điều tương phản lớn so với các phương pháp riêng biệt cho mỗi lĩnh vực của Aristoteles và Aquinas trước đó.

Tuy các phương pháp của Newton rất lôgic, ông vẫn tin vào sự tồn tại của Chúa. Ông tin là sự đẹp đẽ hoàn hảo theo trật tự của tự nhiên phải là sản phẩm của một Đấng Tạo hoá siêu nhân. Ông cho rằng Chúa tồn tại mọi nơi và mọi lúc. Theo ông, Chúa sẽ thỉnh thoảng nhúng tay vào sự vận hồi của thế gian để giữ ǵn trật tự.

Cũng có các nhà triết học trước như Galileo và John Philoponus sử dụng phương pháp thực nghiệm, nhưng Newton là người đầu tiên định nghĩa cụ thể và hệ thống cách sử dụng phương pháp này. Phương pháp của ông cân bằng giữa lư thuyết và thực nghiệm, giữa toán học và cơ học. Ông toán học hoá mọi khoa học về tự nhiên, đơn giản hoá chúng thành các bước chặt chẽ, tổng quát và hợp lư, tạo nên sự bắt đầu của Kỷ nguyên Suy luận. Những nguyên lư mà Newton đưa ra do đó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến thời đại ngày nay. Sau khi ông ra đi, những phương pháp của ông đă mang lại những thành tựu khoa học lớn gấp bội những ǵ mà ông có thể tưởng tượng lúc sinh thời. Các thành quả này là nền tảng cho nền công nghệ mà chúng ta được hưởng ngày nay.

Không ngoa dụ chút nào khi nói rằng Newton là danh nhân quan trọng nhất đóng góp cho sự phát triển của khoa học hiện đại. Như nhà thơ Alexander Pope đă viết:

Nature and Nature's laws lay hid in night

God said, Let Newton be!

and all was light

Tự nhiên im ĺm trong bóng tối

Chúa bảo rằng Newton ra đời!

Và ánh sáng bừng lên khắp lối

Tiểu sử

 

Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica của Newton

Isaac Newton sinh ra tại một ngôi nhà ở Woolsthorpe, gần Grantham ở Lincolnshire, Anh, vào ngày 25 tháng 12 năm 1642 (4 tháng 1, 1643 theo lịch mới). Ông chưa một lần nh́n thấy mặt cha, do cha ông, một nông dân cũng tên là Isaac Newton, mất trước khi ông sinh ra không lâu. Sống không hạnh phúc với bố dượng từ nhỏ, Newton bắt đầu những năm học phổ thông trầm uất, xa nhà và bị gián đoạn bởi các biến cố gia đ́nh. May mắn là do không có khả năng điều hành tài chính trong vai anh cả sau khi bố dượng mất, ông tiếp tục được cho học đại học (trường Trinity College Cambridge) sau phổ thông vào năm 1661, sử dụng học bổng của trường với điều kiện phải phục dịch các học sinh đóng học phí.

Mục tiêu ban đầu của Newton tại Đại học Cambridge là tấm bằng luật sư với chương tŕnh nặng về triết học của Aristotle, nhưng ông nhanh chóng bị cuốn hút bởi toán học của Descartes, thiên văn học của Galileo và cả quang học của Kepler. Ông đă viết trong thời gian này: "Plato là bạn của tôi, Aristotle là bạn của tôi, nhưng sự thật mới là người bạn thân thiết nhất của tôi". Tuy nhiên, đa phần kiến thức toán học cao cấp nhất thời bấy giờ, Newton tiếp cận được là nhờ đọc thêm sách, đặc biệt là từ sau năm 1663, gồm các cuốn Elements của Euclid, Clavis Mathematica của William Oughtred, La Géométrie của Descartes, Geometria a Renato Des Cartes của Frans van Schooten, Algebra của Wallis và các công tŕnh của François Viète.

Ngay sau khi nhận bằng tốt nghiệp, năm 1665, ông phải trở về nhà 2 năm v́ trường đóng cửa do bệnh dịch hạch lan truyền. Hai năm này chứng kiến một loạt các phát triển quan trọng của Newton với phương pháp tính vi phân và tích phân hoàn toàn mới, thống nhất và đơn giản hoá nhiều phương pháp tính khác nhau thời bấy giờ để giải quyết những bài toán có vẻ không liên quan trực tiếp đến nhau như t́m diện tích, t́m tiếp tuyến, độ dài đường cong và cực trị của hàm. Tài năng toán học của ông nhanh chóng được hiệu trưởng của Cambridge nhận ra khi trường mở cửa trở lại. Ông được nhận làm giảng viên của trường năm 1670, sau khi hoàn thành thạc sĩ, và bắt đầu nghiên cứu và giảng về quang học. Ông lần đầu chứng minh ánh sáng trắng thực ra được tạo thành bởi nhiều màu sắc, và đưa ra cải tiến cho kính thiên văn sử dụng gương thay thấu kính để hạn chế sự nhoè ảnh do tán sắc ánh sáng qua thuỷ tinh.

Newton được bầu vào Hội Khoa học Hoàng gia Anh năm 1672 và bắt đầu vấp phải các phản bác từ Huygens và Hooke về lư thuyết hạt ánh sáng của ông. Lư thuyết về màu sắc ánh sáng của ông cũng bị một tác giả phản bác và cuộc tranh căi đă dẫn đến suy sụp tinh thần cho Newton vào năm 1678. Năm 1679 Newton và Hooke tham gia vào một cuộc tranh luận mới về quỹ đạo của thiên thể trong trọng trường. Năm 1684, Halley thuyết phục được Newton xuất bản các tính toán sau cuộc tranh luận này trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lư của Triết lư về Tự Nhiên). Quyển sách đă mang lại cho Newton tiếng tăm vượt ra ngoài nước Anh, đến châu Âu.

Năm 1685, chính trị nước Anh thay đổi dưới sự trị v́ của James II, và trường Cambridge phải tuân thủ những điều luật phi lư như buộc phải cấp bằng cho giáo chủ không thông qua thi cử. Newton kịch liệt phản đối những can thiệp này và sau khi James bị William III đánh bại, Newton được bầu vào Nghị viện Anh nhờ những đấu tranh chính trị của ông.

Năm 1693, sau nhiều năm làm thí nghiệm hoá học thất bại và sức khoẻ suy sụp nghiêm trọng, Newton từ bỏ khoa học, rời Cambridge để về nhận chức trong chính quyền tại Luân Đôn. Newton tích cực tham gia hoạt động chính trị và trở nên giàu có nhờ bổng lộc nhà nước. Năm 1703 Newton được bầu làm chủ tịch Hội Khoa học Hoàng gia Anh và giữ chức vụ đó trong suốt phần c̣n lại của cuộc đời ông. Ông được Nữ hoàng phong bá tước năm 1705. việc ai phát minh ra vi phân và tích phân, Newton và Lepnic không bao giờ tranh luận cả, nhưng các người hâm mộ lại tranh căi quyết liệt khiến hai nhà khoa học vĩ đại này cảm thấy xấu hổ. Ông mất ngày 31 tháng 3 năm 1727 tại Luân Đôn.

Nghiên cứu khoa học

Quang học

 

Quyển Opticks của Newton

Từ năm 1670 đến 1672, Newton diễn thuyết về quang học. Trong khoảng thời gian này ông khám phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu, và một thấu kính hay một lăng kính sẽ hội tụ các dăy màu thành ánh sáng trắng.

Newton c̣n cho thấy rằng ánh sáng màu không thay đổi tính chất, bằng việc phân tích các tia màu và chiếu vào các vật khác nhau. Newton chú ư rằng dù là ǵ đi nữa, phản xạ, tán xạ hay truyền qua, màu sắc vẫn giữ nguyên. V́ thế màu mà ta quan sát là kết quả vật tương tác với các ánh sáng đă có sẵn màu sắc, không phải là kết quả của vật tạo ra màu.

(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Về trang chính


Isaac Newton -

[21/02/2006 - Vatlysupham]

 Isaac Newton (1642 - 1727) - nhà vật lư, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra vật lư học cổ điển"

Niutơn xuất thân gia đ́nh quư tộc nông thôn. Cha của Niutơn mất trước khi ông ra đời. Lúc mới sinh Niutơn ốm yếu, quặt quẹo. Bà mẹ quan tâm chăm sóc sức khỏe cho Niutơn nhiều hơn đường học vấn. Năm 12 tuổi, bà mới cho con trai đi học. V́ sức yếu, cậu thường bị các bạn bắt nạt. Cậu bèn nghỉ ra cách trả thù thú vị, là quyết tâm học thật giỏi để đứng đầu lớp. Năm 17 tuổi, Niutơn vào học ở trường Đại học tổng hợp Kembritgiơ. Thời gian c̣n là sinh viên, Niutơn đă t́m ra nhị thức trong toán học giải tích, được gọi là "nhị thức Niutơn". Năm 19 tuổi bắt đầu vào Đại học Cambirdge, bắt đầu nghiên cứu rộng răi khoa học tự nhiên.

 

Năm 27 tuổi, ông được cử làm giáo sư toán ở trường Đại học nơi ông học; năm 30 tuổi, ông được bầu làm hội viên Hội khoa học hoàng gia Anh (Viện hàn lâm) và 23 năm cuối đời, ông làm chủ tịch Hội khoa học hoàng gia Anh. Ông c̣n là hội viên danh dự của nhiều Hội khoa học và viện sĩ của nhiều Viện hàn lâm.

Thành tựu khoa học của ông trên nhiều lĩnh vực, tích vi phân ông sáng lập là một cột mốc trong lịch sử toán học; giải thích về các loại màu sắc củavật thể đă mở đường sáng lập khoa học quang phổ. Cống hiến lớn khiến tên tuổi ông trở thành bất tử là Ba định luật về chuyển động đặt cơ sở lư luận cho lực học kinh điển, quan trọng nhất là "Nguyên lư vạn vật hấp dẫn". Đây là nguyên lư cơ sở cho những phát minh vật lư học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ. Một lần, Newton trông thấy quả táo rụng từ trên cây xuống, ông liền nghĩ đến những nguyên nhân về sự rơi của các vật và t́m ra sức hút của quả đất.

Những phát kiến về thiên văn học của Niutơn dựa vào định luật vạn vật hấp dẫn đă giáng đ̣n chí mạng vào uy tín của giáo hội. Bọn bảo vệ tôn giáo đă phản ứng lại một cách quyết liệt đầy căm phẫn trước những phát minh về thiên văn học của Niutơn. Do ảnh hưởng của giáo hội, nhiều trường đại học ở châu Âu đến tận thế kỷ XIX vẫn cấm dạy môn cơ học, những vấn đề có liên quan đến định luật vạn vật hấp dẫn của Newton.

Niutơn sống cuộc đời độc thân và hết sức đăng trí. Tính đăng trí của ông đă trở thành những giai đoạn như chuyện mời cơm khách, chuyện luộc đồng hồ, chuyện đục hai lỗ cho chó và mèo ... Newton mất năm 84 tuổi. Ông được mai táng ở Đài kỷ niệm quốc gia Anh trong tu viện Oetminxtơ - nơi an nghỉ của các vua chúa và các bậc vĩ nhân của nước Anh. 

Đứa trẻ khéo tay.

Lúc nhỏ Newton là đứa trẻ ít nói nhưng ông rất thích thủ công nghệ, thường xuyên tự thiết kế và làm ra các đồ chơi tinh xảo. Mọi người đều rất thích chúng, đặc biệt là diều của ông làm, nó vừa đẹp vừa bao nhanh và bay cao.

Vào một chiều nọ ông buộc một chiếc đèn lồng xinh xẻo vào chiếu diều của ḿnh và thả lên trời, trông giống như một ngôi sao trên trời. Mọi người trong thôn đều chạy ra xem cho rằng xuất hiện sao chổi. Khi biết đó là diều của Newton thả th́ mọi người đều tấm tắc khen. Những thứ  Newton làm ra đều rất lạ và cũng rất đẹp. Ông tự tay làm chiếc chong chóng đặt ở đầu nhà, khi ông đi xem chiếc chong chóng lắp ở thôn bên, về nhà ông mô phỏng làm một chiếc như vậy. Để cho nó quay cả được khi không có gió, ông đặt trong lồng của cánh quạt một con chuột, khi con chuột động đậy là chong chóng quay liên tục.

Học xong tiểu học, Newton c̣n làm ra chiếc "đồng hồ nước". Ông dùng một chiếc thùng đựng nước nhỏ, dưới đáy có một lỗ nhỏ có nút, tháo nút ra nước sẽ nhỏ giọt xuống. Mặt nước trong thùng dần dần hạ thấp, chiếc phao trong thùng hạ thấp theo. Chiếc phao đồng thời kéo theo chiếc kim chỉ di động tư một trên mặt chiếc mâm có khắc vạch, một vạch khắc chỉ một đơn vị thời gian. trong pḥng của ḿnh Newton lắp một chiếc đồng hồ nước, ông cũng lắp cho hàng xóm một chiếc như vậy.

Thú vị hơn là Newton c̣n lắp cho bà con trong thôn một chiếc "đồng hồ mặt trời". Lúc hơn mười tuổi Newton quan sát thấy buổi sáng đi học bóng của ḿnh bên trái, chiều tan học về bóng lại nằm sang phía bên kia. Mấy ngày liền đều như vậy, ông cảm thấy mặt trời chuyển động có quy luật. Như vậy chẳng phải có thể lợi dụng quy luật này làm một chiếc "Đồng hồ mặt trời" chính xác hơn sao. Thế là ông bắt đầu làm thí nghiệm, hàng ngày ông "đuổi theo" bóng nắng khắp nơi, ghi lại thay đổi vị trí từng nửa giờ, một giờ. Cuối cùng ông cũng làm xong chiếc đồng hồ bóng nắng tṛn. Nó là một dụng cụ đo thời gian dựa vào bóng nắng mặt trời. Xung quanh mâm tṛn của đồng hộ mặt trời ông khắp các vạch dấu đều đặn, lợi dụng sự xê dịch của bóng nắng mặt rời có thể biết được chính xác thời gian. Sau khi làm được đồng họ mặt trời Newton đặt nó ở giữa làng để nó báo giờ cho mọi người. Mọi người trong thôn gọi là "Đồng hồ Newton", nó c̣n được sử dụng khá lâu sau khi ông mất. Mỗi lần nh́n thấy "Đồng hồ Newton" là mọi người lại nhớ đến cậu bé khéo tay thông minh của ngày ấy.

Newton đăng trí

Newton đối với khoa học th́ chuyên cần nhưng trong sinh hoạt lại là người vô tâm, hay quên, ông thường làm việc quên cả ăn.

Có một lần Newton mời bạn đến nhà ăn cơm. Bạn đến cơm canh đă bày ra, nhưng Newton vẫn miệt mài trong pḥng thí nghiệm, bạn ông không quấy rầy ông, đợi lâu mà vẫn chưa thấy ông ra, liền tự động ăn một chú gà quay trước, bỏ xương trong mâm rồi ngồi vào ghế thiu thiu ngủ. Măi sau Newton bước ra, mồ hôi nhễ nhại, gọi bạn dậy và xin bạn lượng thứ; rồi đi tới bà ăn chuẩn bị ăn. Khi nh́n thấy xương để trong mâm và bát đă dùng, ông ṿ đầu cười nói:

- "Ôi th́ ra ḿnh đă ăn rồi, tôi vẫn cứ tưởng là ḿnh chưa ăn!"

Đứng bên cạnh, thấy vậy bạn ông đă cười vang.

Có một lần Newton xuống bếp tự làm bữa sáng, ông đun một nồi nước chuẩn bị luộc trứng. Nước vẫn chưa sôi, xem ra Newton có phần sốt ruột, rồi bắt đầu nghĩ đến một vấn đề khoa học, quá tŕnh tập trung ông quên luôn chuyện đang đun nước. Lúc này nước đă sôi sùng sục, nước bốc hơi mù mịt, thuận tay ông thả luôn vật để bên cạnh vào nồi. Nửa tiếng sau ông mới bừng tỉnh, nhớ việc đang làm trong bếp: "Trứng gà chắc đă chín rồi". Ông mở vung nồi th́ thấy trong nồi không phải là trứng mà là chiếc đồng hộ đeo tay của ông.

Một buổi chiều đẹp trời, Newton định cưỡi ngựa vào rừng có việc, ông lấy yên ngựa và đi dắt ngựa. Vừa dắt ngựa bỗng nghĩ đến một vấn đề khoa học. Dây ngựa trong tay, ông buông ra lúc nào cũng không hay, cứ thế vác yên ngựa vừa đi vừa nghĩ. Lúc th́ cúi đầu im lặng, lúc th́ giơ tay vẽ vẽ vào không trung, cứ như người lẩn thẩn vậy. Khi ông đi đến đỉnh núi th́ bỗng cảm thấy mệt quá và muốn cưỡi ngựa, nhưng lúc này ngựa không biết đă chạy đi chốn nào rồi.

Một ngày mùa nọ, Newton ngồi gần ḷ sưởi suy nghĩ vấn đề ǵ đó. V́ quá tập trung, nóng quá cũng không biết nữa, tay áo bên phải của ông đă có mùi khét, bốc khói đen, mùi nồng nặc mà ông vẫn không phát hiện ra có chuyện ǵ xảy ra. Người nhà chạy vào sợ quá hét toáng lên, lúc đó Newton mới biết tay áo ḿnh bị cháy.

Tại sao Newton lại đăng trí thế? V́ ông quá say sưa với khoa học, tất cả dành cho công việc, quên hết mọi việc quanh ḿnh. Không có tinh thần nghiên cứu khoa học say sưa như vậy th́ làm sao có thể trở thành nhà khoa học lớn được?

Chuyện về quả táo chín

Đây là câu chuyện thú vị và đầy ư nghĩa về nhà khoa học vĩ đại Newton.

Vào một ngày mùa thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo từ cây rơi xuống "bịch" một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nh́n quả táo chín lăn xuống vũng bùn. Quả táo đă cho ông một gợi ư làm ông nghĩ miên man.

Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tài v́ gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời? Như vậy trái đất có cái ǵ hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, ḥn đă ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?

Sau này Newton nêu ra: Mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; Trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau, v́ có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.

Chuyện quả táo rơi xuống đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo, đương nhiên quả táo cũng có lực hút của quả đất, nhưng lực hút của trái đất đối với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống mặt đất? V́ mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối với mặt trời th́ trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.

Vào buổi tối khi nh́n lên bầu trời thấy vô vàn những v́ sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực hút lẫn nhau. Đây chính là định luật "Vạn vật hấp dẫn" nổi tiếng của Newton.


10 sự thật chưa kể về Issac Newton

Posted by Tô Lâm Viễn Khoa on 30 October, 2008

Không phủ nhận Issac Newton là nhà khoa học đại tài, người đặt nền móng cho ngành cơ học, quang học và vật lư cổ điển. Tuy nhiên có những bí mật về ông mà không phải ai cũng biết: suưt trở thành nông dân, là nhà giả kim bí mật, cuồng tín Kinh Thánh, và c̣n nhiều hơn thế nữa…
 

1. Bé Newton suưt chết yểu
 

Năm 1642, đúng vào năm nhà vật lư Galileo Galilei qua đời, bé Isaac Newton chào đời sớm hơn dự kiến đúng vào ngày Giáng Sinh. Được đặt theo tên cha, người đă mất cách đó hơn 3 tháng, Isaac ốm yếu và bé nhỏ đến mức có thể đặt vừa vào trong cái b́nh 1,5 lít - theo lời thân mẫu ông kể lại.

2. Newton suưt làm nông dân

Sinh ra trong 1 gia đ́nh làm nghề nông, năm 17 tuổi Newton sém chút nữa th́ nghe lời mẹ, bỏ học để chăm nom trang trại gia đ́nh. May mắn làm sao, cậu chàng này không có bàn tay chăn nuôi trồng trọt. Chẳng lâu sau đó, ông chú Newton đă thuyết phục được mẹ cậu cho con trai đến học trường Trinity ở Cambridge.

3. Sự thật về Newton và quả táo

Theo câu chuyện nổi tiếng do nhà văn Pháp Voltaire kể lại: một lần đi dạo trong vườn nhà ở dinh thự Woolsthorpe, Newton bị một quả táo rơi trúng đầu và từ đó nảy ra thuyết “Vạn vật hấp dẫn”. Kỳ thực lúc đó, Newton đang ngồi trong nhà nh́n ra ngoài cửa sổ th́ nh́n thấy táo rơi.

4. Newton “giấu” các công tŕnh nghiên cứu

Newton sớm bộc lộ tài năng xuất chúng từ khi c̣n rất trẻ, tuy nhiên trong khoảng thời gian từ năm 21 đến năm 27 tuổi, ông gần như không tiết lộ bất cứ công tŕnh nghiên cứu nào của ḿnh.

Điều này dẫn đến nhiều rắc rối xung quanh việc chứng thực tác giả sau này. Ví dụ như khi nhà toán học Gottfried Leibniz công bố công tŕnh nghiên cứu về số vi phân và tích phân, Newton bèn lên tiếng phản đối rằng: chính ông mới là người phát minh ra nó cách đây rất nhiều năm nhưng không xuất bản. Sự kiện này trở thành một trong những tranh căi rùm beng nhất trong lịch sử toán học: ai mới là tác giả thực sự của phép toán vi phân?

5. Newton sùng đạo…

Rất nhiều người đă sử dụng Định luật Chuyển động và Định luật vạn vật hấp dẫn để bác bỏ sự tồn tại của Chúa trời. Tuy nhiên, chính bản thân tác giả lại viết:

“Lực hút Trái đất chỉ giải thích sự chuyển động của các hành tinh nhưng không thể làm rơ ai, khi nào và bằng cách nào đă đưa các hành tinh vào vị trí chuyển động như vậy. Chính Chúa trời là người điều khiển và sắp đặt vạn vật. Người là bất diệt, là vĩnh cửu…”.

6. … nhưng lại hờ hững với Quỷ Satan

Dù mang niềm tin mănh liệt với tôn giáo nhưng Newton lại phản đối kịch liệt những thuyết giáo liên quan đến ma quỷ, linh hồn. Điều này có vẻ đi ngược với xu hướng chung của thời đại: vào thế kỷ 17, phần lớn các học giả và giới trí thức châu Âu đều tin Santan là có thật, họ coi sự bất kính của Newton là một hành động báng bổ.

7. Newton bị ám ảnh bởi Kinh Thánh

Kinh Thánh là đam mê lớn nhất trong cuộc đời Newton, thậm chí c̣n lớn hơn cả các ngành khoa học và nghiên cứu. Trên thực tế, ông đă tính ra ngày hành h́nh Chúa Jesu chính xác là vào mùng 3 tháng 4 năm 33 sau Công nguyên, và ngày sớm nhất nhân loại cận kề nguy cơ diệt vong là năm 2060 sau Công nguyên.

“Sấm truyền” này có thể đúng, có thể sai, tuy nhiên ít nhất một tiên đoán của ông đă trở thành sự thật: người Do Thái đă trở về mảnh đất Israel.

8. Newton từng là nhà giả kim

 

Các nghiên cứu về thuật giả kim (biến kim loại thành vàng) của Newton được ông giấu kín suốt cuộc đời, bởi theo đạo luật năm 1404 ở Anh, việc sản xuất vàng và bạc trái phép bị có thể bị khép vào trọng tội.

9. Nhà chức trách chống hàng giả

Năm 1696, Newton đảm nhận vị trí giám sát trong Bộ Ngân khố Anh và được giao trách nhiệm bài trừ hàng giả.

Có vẻ như nhà khoa học rất hăng say với công việc này: đích thân ông cải trang và lê la tới khắp các quán bar để truy t́m bằng chứng. Kết quả, ông đă khiến 10 tên làm bạc giả khét tiếng phải cúi đầu nhận tội.

10. Newton - chính trị gia kiệm lời

Năm 1689, Newton được bổ nhiệm vào nghị viện Anh và thực hiện bổn phận đó đúng một năm tṛn. Suốt thời gian này, người ta thấy ông nói đúng 1 câu duy nhất: (với người phục vụ trong quốc hội) “Làm ơn đóng cái cửa sổ lộng gió kia hộ tôi”.

Thùy Vân
Theo Neatorama
 


NIUTƠN(1642 - 1727)

Ixăc Niutơn, nhà vật lí, toán học và thiên văn Anh, nhà bác học đă phát hiện định luật lớn nhất của Vũ Trụ, sinh năm 1642 trong một gia đ́nh nông dân giản dị. Lúc nhỏ ông hay ốm đau và gầy so với tuổi nhưng ông đă có một đời sống khá thọ, không bao giờ đau ốm. Ở trường, ông là một học sinh như các học sinh khác, không tỏ ra có điều ǵ nổi bật. Nhưng trong việc chế tạo đồ chơi cơ khí ông có tài khéo léo đặc biệt: Một cối xay có con chuột thay người điều khiển, một chiếc diều bay có lồng đèn để ban đêm làm cho những người trong vùng hoảng sợ.

Năm 18 tuổi, 1661, ông vào đại học tổng hợp Cambơrit (Cambridge). Tại đây thiên tài của ông cũng chưa biểu hiện rỏ rệt. Ví dụ, năm 1663, trong một cuộc thi tuyển, ông chỉ được xếp hạng 24 trên 140 sinh viên. Lúc bấy giờ trường đại học phải đóng cửa v́ bệnh dịch và Niutơn trở về quê, sống ở đây suốt ba năm liền (1664-1667).

Chính tại nơi đây, trong cái yên lặng của thiên nhiên ở xung quanh làng quê, ông đă có những phát thảo đầu tiên về những khám phá cơ bản tương lai trong ba lĩnh vực gắn liền với tên tuổi của ông: tính vi tích, thuyết vạn vật hấp dẫn và bản chất ánh sáng trắng.

Phép tính vi tích nghiên cứu những đại lượng vô cùng nhỏ. Chính Niutơn là người đă đặt những cơ sở cho ngành toán học này.

Trong khi suy nghĩ về những điều mà những người đi trước ông, Kêplê và Galilê đă phỏng đoán về sức hút của vạn vật, Niutơn nêu giả định rằng các thiên thể nhất định có tác động lẫn nhau bằng sức hút.

Sau nhiều tính toán và suy nghĩ, đến năm 1667, ông tŕnh bày phát họa đầu tiên về định luật vạn vật hấp dẫn.

Người ta kể lại rằng một hôm Niutơn ngồi ở góc cây táo, nh́n mặt trời lặn. trăng đă tỏa sáng và các v́ sao đă thắp sáng trên bầu trời. Bổng nhiên một quả táo rơi. Nhà bác học trẻ, 24 tuổi mà đầu óc lúc nào cũng bận rộn suy nghĩ về vấn đề sức hút của vạn vật, bất ngờ nêu lên câu hỏi: tại sao quả táo rơi và mặt trăng không rơi, trong khi cả hai đều chịu sức hút? bổng ông lóe lên một tia sáng: “A! Mặt trăng rơi. nếu nó không rơi, nó sẻ xa dần trái đất.”

Nhưng ông cần đến hơn 16 năm suy nghĩ và chứng minh để công bố định luật vạn vật hấp dẫn vào năm 1685, một trong những khám phá lớn nhất đă bắt nguồn từ một bộ óc của con người: Hai vật hút nhau theo một lực tỉ lệ thuận với khối lượng của chúng và tỉ lệ nghịch với b́nh phương khoảng cách giữa các trọng tâm của chúng.

Định luật này giúp ông tính được khối lượng mặt trời, khối lượng của trái đất và của các hành tinh, giải thích tại sao trái đất lại dẹt ở hai cực, nguyên nhân của hiện tượng thủy triều là kết quả sức hút tổng hợp của mặt trời và mặt trăng, tính không điều ḥa của chuyển động mặt trăng v.v… Năm 1687 ông công bố những khám phá của ḿnh trong tác phẩm chính những nguyên lí toán học của triết học tự nhiên , công thức hóa ba nguyên lí làm cơ sở của cơ học hiện đại.

Bạn c̣n nhớ ba định luật của Niutơn được học ở trường:

1. Mọi vật đứng yên hay tiếp tục chuyển động theo đường thẳng với một vận tốc không đổi, nếu nó không chịu tác dụng của một lực bên ngoài.

2. Sự thay đổi chuyển động của một vật tỉ lệ thuận với lực bên ngoài, tỉ lệ nghịch với khối lượng vật và theo phương của lực. Công thức của nó có dạng sau: F= ma

3. Với tất cả lực tác dụng đều có phản lực tương đương nhưng theo chiều ngược lại.

Định luật này ở mức độ nào đó nói lên biểu hiện đầu tiên của định luật phản lực được Xiôncôpxki công thức hóa đầu tiên thế kỉ XX.

Niutơn đă phân tích ánh sáng trắng thành bảy màu quang phổ. Một bài toán mới bắt đầu giày ṿ trí tuệ nhà bác học: cắt nghĩa bản chất ánh sáng. Những công tŕnh của ông về ánh sáng đă mở ra một kỉ nguyên.

Những nhà viết tiểu sử của Niutơn đă mô tả ông trong khi gần 50 tuổi là một người tầm vóc trung b́nh, mắt sáng, mái tóc hoa râm, luôn luôn khỏe mạnh. Ông nói ít và lúc nào cũng suy nghĩ về một bài toán nào đó.

Năm 1688, Niutơn được bầu vào Quốc Hội. Ông không ḥa vào các cuộc tranh luận chính trị và các tay tài tử khôi hài cho rằng trong suốt các buổi họp Niutơn chỉ nói mỗi một câu: “xin đóng dùm cửa sổ, ở đây có luồng gió lùa khác thường”. Năm 1703, ông là chủ tịch hội hoàng gia và ông ở chức vị tôn vinh này đến khi qua đời.

Nhà bác học vĩ đại này không bao giờ ốm đau, đă mất đi bất ngờ v́ bệnh gan năm 1727.

Một đài kỉ niệm đă dựng lên ở ngôi mộ của Niutơn năm 1731, trên bia kết thúc bằng ḍng chữ: “Những người đă khuất hăy hạnh phúc v́ đă có một sự làm đẹp như thế cho nhân loại”.

(Nguồn: Internet)