Lịch sử Quang học - Phần 2

Hiệp Khách Quậy Trong những năm đầu của thiên niên kỉ thứ hai, nền khoa học Arabn phát triển nhanh chóng, đặc biệt là các nghiên cứu về thiên văn học, quang học và sự nhìn. Các nghiên cứu quang học của người Trung Quốc cũng nổi bật trong một thời gian... Xin mời đọc tiếp.

1000-1599

Trong những năm đầu của thiên niên kỉ thứ hai, nền khoa học Arabn phát triển nhanh chóng, đặc biệt là các nghiên cứu về thiên văn học, quang học và sự nhìn. Các nghiên cứu quang học của người Trung Quốc cũng nổi bật trong một thời gian ngắn khi họ làm thí nghiệm với các thấu kính, gương, và bóng đổ, nhưng sau những năm 1200 thì bị đình trệ.

Đá đọc sách thế kỉ thứ 13

Ở châu Âu trung đại, các học giả trung thành tuyệt đối với những lời giáo huấn của các nhà triết học Hi Lạp cổ đại, đặc biệt là Aristotle, và giáo huấn của Nhà thờ Thiên chúa giáo. Khoa học được xem là một quá trình chỉ đòi hỏi sự quan sát thế giới tự nhiên giải thích bằng tư tưởng duy lí và thần học chính xác. Thực nghiệm không được xem là cần thiết để tìm hiểu thế giới hoạt động như thế nào, ít nhất chẳng phải là một thế giới được xem là nằm tại trung tâm của một vũ trụ bất biến.

Tuy nhiên, khoảng thời gian 600 năm này thật sự đã chứng kiến những đột phá quan trọng trong khoa học và ngành quang học. Quan điểm Hi Lạp cho rằng mắt người phát ra các tia sáng cuối cùng đã bị bác bỏ và mắt người được hiểu chính xác là bộ phận cảm thụ ánh sáng. Những thấu kính phóng đại đầu tiên hoạt động thật sự được chế tạo vào những năm 1200, và vào những năm 1400 thì các thấu kính đã được dùng làm kính đọc sách. Người Trung Quốc đã chế tạo kính đeo mắt với thấu kính màu còn sớm hơn nữa, nhưng hiển nhiên những dụng cụ này được dùng với mục đích trang sức, chứ không phải khắc phục tật nhìn của mắt. Vào năm 1600, các thấu kính chất lượng cao đã được chế tạo và dùng để sản xuất những chiếc kính hiển vi và kính thiên văn đầu tiên.

Vào nửa sau của những năm 1200, khi nền khoa học Arab và Trung Hoa đang lụi tàn, thì châu Âu bắt đầu thoát dần khỏi Thời kì Tăm tối của mình. Robert Grosseteste, một giám mục và là học giả người Anh, đã giới thiệu bản dịch Latin của các tác phẩm triết học và khoa học Hi lạp và Arab với người châu Âu trung cổ. Đáng chú ý là ông đã đề xuất rằng một lí thuyết chỉ có thể xác thực bằng cách kiểm tra cac tiên đoán thực nghiệm của nó – một sự chệch hướng thật sự khỏi triết học Aristotle và là sự khởi đầu của phương pháp khoa học ở châu Âu. Người học trò của ông, Roger Bacon, tiếp tục sự ủng hộ thực nghiệm của ông và đã cố gắng thuyết phục Giáo hội đưa phương pháp thực nghiệm vào hệ thống giáo dục, nhưng không thành công.

Kính hiển vi ghép Janssen (khoảng cuối những năm 1500)

Những năm 1400 và 1500 chứng kiến sự bắt đầu kết thúc thế giới quan Ptolemy, quan niệm xem Trái đất là trung tâm của vũ trụ, với mặt trời, các ngôi sao, và các hành tinh quay tròn xung quanh nó. Các nhà khoa học đã và đang thực hiện các quan sát thế giới của riêng họ và một số người, như Nicolas Copernicus, bắt đầu tin rằng lí thuyết Ptolemy không thể giải thích các quan sát của họ. Vào năm ông qua đời, 1543, Copernicus đã cho xuất bản một bộ tác phẩm giải thích lí thuyết nhật tâm của ông, đặt Trái đất và các hành tinh khác trong quỹ đạo xung quanh Mặt trời. Động thái này đã khai sinh ra Cuộc cách mạng Khoa học, nhưng mất đến 150 năm sau thì thế giới quan mới đó mới hoàn toàn được chấp nhận.

Năm 1572, nhà thiên văn Tycho Brahe đã quan sát một sao siêu mới trong chòm sao Cassiopeia. Việc nhìn thấy một “ngôi sao mới” đột ngột xuất hiện trên bầu trời, sáng dần lên, sau đó mờ dần đi khỏi tầm nhìn trong hơn 18 tháng, đã gây cảm hứng nhưng khó hiểu đối với nhà thiên văn học. Ông và những người khác bắt đầu nghi vấn quan niệm Aristotle về một vũ trụ hoàn hảo và bất biến.

1000 đến 1599

1000-1199

Nhà triết học và nhà vật lí Hồi giáo người Iran Ibn Sina (tên Latin là Avicenna) nêu lí thuyết rằng nếu sự cảm nhận ánh sáng là do sự phát xạ từ một nguồn sáng nào đó, thì tốc độ ánh sáng phải là hữu hạn.

Nhà triết học, luật gia, và bác sĩ người Tây Ban Nha gốc Arab Ibn Rushd (tên Latin là Averroës), viết các sách nói về nhiều lĩnh vực quang học, từ thiên văn học đến tôn giáo, tích hợp truyền thống Hồi giáo với tư tưởng Hi Lạp cổ đại. Trong hàng thế kỉ, các bài tóm lược và chú giải của ông về các tác phẩm của Aristotle và cuốn Republic của Plato có sức ảnh hưởng mạnh đối với thế giới Hồi giáo lẫn châu Âu.

Nhà triết học Trung Quốc Shen Kua viết quyển Meng ch'i pi t'an (Mộng Hồ Luận), trong đó ông trình bày về gương lõm và các tiêu điểm. Ông lưu ý rằng ảnh phản xạ trong một gương lõm bị lộn ngược, và mô tả hiệu ứng buồng tối. Người ta còn kể lại rằng ông đã cho xây dựng một quả cầu thiên thể và đồng hồ mặt trời bằng thiếc.

1200-1250

Robert Grosseteste, một giám mục và là một học giả người Anh, giới thiệu bản dịch các tác phẩm triết học và khoa học Hi Lạp và Arab với châu Âu trung cổ. Ông theo đuổi các nghiên cứu về hình học, quang học và thiên văn học, làm thí nghiệm với các gương và thấu kính, chế tạo một thấu kính thô sơ những có độ phóng đại thật sự. Ông đề xuất rằng một lí thuyết chỉ có thể được xác thực bằng cách kiểm tra các hệ quả của nó với phương pháp thực nghiệm, một sự chệch hướng đáng kể khỏi trường phái triết học Aristotle và là sự khởi đầu của phương pháp khoa học ở thế giới phương Tây. Trong các tác phẩm của ông về thiên văn học, ông khẳng định Dải Ngân hà là sự tập hợp của ánh sáng phát ra từ nhiều ngôi sao nhỏ, ở gần nhau.

Các học giả người Trung Quốc Chiang Khuei và Fang Chheng đề cập tới sự tương tác giữa chuyển động và sự chiếu sáng trong tác phẩm thơ ca của họ, Meng Liang Lu, nhưng sự húng thứ của người Trung Quốc với quang học và cơ sở vật lí của ánh sáng và màu sắc bị lu mờ dần trong ba trăm năm tiếp sau đó.

1268-1272

Roger Bacon, một nhà triết học người Anh và là học trò của Robert Grosseteste, viết một vài tập sách nói về các thí nghiệm của ông. Trong quyển Opus Maius, Bacon đã đánh giá kiến thức của thời kì ấy về sự phóng đại các vật qua thấu kính lồi. Một vài chuyên luận khác, trong đó có De Multiplicatione SpecierumPerspectiva, đánh giá nguyên lí buồng tối, nhưng lại không mô tả thiết bị ông dùng trong các thí nghiệm. Bacon là người đầu tiên nêu lí thuyết rằng thấu kính có thể có ứng dụng trong sự hiệu chỉnh tật nhìn của mắt, và ông còn là người đầu tiên áp dụng hình học để nghiên cứu quang học. Bacon phát biểu, nhưng không chứng minh, rằng màu sắc của cầu vồng là do sự phản xạ và khúc xạ của ánh sáng mặt trời qua từng giọt nước mưa.

1270

Witelo xứ Silesia (tên Latin là Vitellio), một nhà vật lí người Ba Lan, hoàn thành một tập sách mang tựa đề Perspectiva (vào thời kì ấy, ngành quang học được gọi là "perspectives"). Đây sẽ là chuyên luận thời trung cổ quan trọng nhất nói về quang học và là văn bản chuẩn về quang học cho đến thế kỉ thứ 17.

1275

Học giả dòng Dominic người Anh Albertus Magnus (sau này gọi là St. Albertus Magnus, vị thánh bảo trợ của khoa học tự nhiên) nghiên cứu hiệu ứng cầu vồng của ánh sáng và trình bày rằng tốc độ của ánh sáng là cực kì nhanh, nhưng hữu hạn. Ông còn khảo sát tác dụng làm đen của ánh sáng mặt trời đối với các tinh thể bạc nitrate.

1303

Bernard xứ Gordon, một bác sĩ người Pháp, viết trong một tập sách trong bộ sách y khoa của ông, Lilium Medicinae, nói về việc sử dụng kính đeo mắt làm phương tiện khắc phục tật viễn thị - bản ghi chép đầu tiên nói đến việc sử dụng thấu kính để khắc phục tật nhìn.

1304

Theodoric xứ Freiberg (Đức), một thầy tu dòng Dominic, chứng minh rằng cầu vồng là do sự khúc xạ bên trong và sự phản xạ ánh sáng mặt trời bên trong từng giọt nước mưa, chứng minh lí thuyết của Roger Bacon và bác bỏ giả thuyết của Aristotle rằng cầu vồng phát sinh từ cả một đám mây. Không giống như nhiều học giả thuộc thời đại của ông, Theodoric quan sát và lí giải cầu vồng thứ cấp cùng với cầu vồng sơ cấp.

1440

Hàng thập kỉ trước Copernicus, Nicholas xứ Cusa (Đức) phát biểu trong quyển De docta ignorantia (Về cái ngu dốt đã học được) rằng Trái đất không nằm tại trung tâm của vũ trụ và là một trong vô số những thiên thể chiếm giữ vũ trụ. Những phát biểu này sẽ tiếp tục phát triển trong những tác phẩm tiếp sau đó.

1472

Johannes Regiomontanus (Đức) thực hiện quan sát đầu tiên được ghi nhận về sao chổi Halley.

1480

Leonardo da Vinci (Italy) nghiên cứu sự phản xạ ánh sáng và so sánh nó với sự phản xạ của sóng âm thanh.

1520

Franciscus Maurolycus, một linh vực dòng Tên, nhà thiên văn học và nhà toán học, viết quyển De Subtilitate, trong đó ông trình bày các lí thuyết về ánh sáng, rạp hát và ánh sáng rạp hát. Năm 1521, ông hoàn thành quyển Theoremata De Lumine Et Umbra Ad Perspectivam, một sự lí giải cách chế tạo kính hiển vi. Maurolycus con quan sát thấy rằng trong một buồng tối, bóng của một vật chuyển động theo chiều ngược với vật và ông đã quan sát nhật thực bằng buồng tối.

1521

Trong bản dịch tác phẩm Chuyên luận về Kiến trúc của Vitruvius, Caesare Caesariano (Italy) mô tả một thí nghiệm với buồng tối, thực hiện bởi Papnutio – một thầy tu dòng Benedictine. Trong thí nghiệm này, một cái ống hình nón trên tường được sử dụng để tạo ảnh của các vật bên ngoài phòng. Caesariano là học trò của da Vinci.

1543

Nicolaus Copernicus (Ba Lan) xuất bản phiên bản cuối cùng của lí thuyết nhật tâm của ông, De revolutionibus orbium coelestium libri vi (Sáu Quyển sách Bàn về Sự chuyển động tuần hoàn của Các thiên thể).

1545

Reinerus Gemma-Frisius (Hà Lan) xuất bản quyển De Radio Astronomica Et Geometrico, trong đó có mô tả và hình vẽ kì nhật thực năm 1544 mà ông quan sát ở Louvain vào ngày 24 tháng 1.

1550

Girolamo Cardano (Italy), một nhà toán học và bác sĩ, xuất bản quyển De Subtilitate Libri trong đó ông mô tả một buồng tối với một thấu kính lồi trong lỗ hở. Cardano còn công bố một mô tả chi tiết của các hình ảnh cải tiến từ cấu hình của ông.

1551

Erasmus Reinhold, nhà toán học và thiên văn học người Đức, tường thuật việc sử dụng một buồng tối lỗ nhỏ để quan sát nhật thực và mô tả chi tiết sử dụng buồng tối như thế nào. Ông còn nhắc tới việc quan sát các vật xung quanh ông với buồng tối lỗ nhỏ.

1556

Nhà giả kim thuật Georg Fabricius cho xuất bản một quyển sách nói về các thí nghiệm của ông với kim loại, lưu ý rằng bằng cách thêm một dung dịch muối và bạc nitrate vào những quặng nhất định, thì kim loại sẽ chuyển từ màu trắng ở trạng thái chuẩn bị sang màu đen khi phơi ra trước ánh sáng mặt trời.

1558

Năm 1558, Giovanni Battista Della Porta, (Italy) xuất bản quyển Magiae Naturalis Libri (Thiên nhiên kì thú), một tài liệu tham khảo chứa đựng các thông tin chi tiết về một số khoa học như vật lí học, thiên văn học và giả kim học. Ông còn đề cập một vài chi tiết về buồng tối. Trong một tác phẩm sau này, ông so sánh mắt người với camera và lí giải sự nhìn theo sự khúc xạ, lăng kính, thấu kính, và trình bày về quang học nói chung.

1568

Daniel Barbaro (Italy) xuất bản quyển La Practica Della Perspectiva, mô tả việc sử dụng một thấu kính hai mặt lồi để tăng nét hình ảnh trong một buồng tối. Ông còn trình bày rằng hình ảnh sắc nét đó giờ có thể phác họa bằng bút chì và đề xuất các họa sĩ nên sử dụng phương pháp trên.

1572

Nhà thiên văn học người Đan Mạch Tycho Brahe chứng kiến sự xuất hiện đột ngột của một “ngôi sao mới” (sao siêu mới) và đề xuất ra lí thuyết mang tính đột phá rằng vũ trụ ở trong trạng thái biến đổi không ngừng.

Freidrich Risner (Đức) dịch các tác phẩm viết về quang học của Alhazen và Witelo sang tiếng Latin và đưa những khái niệm cùng những kết quả của những học giả này đến với cộng đồng khoa học châu Âu đang dần lớn mạnh.

1584

Giordano Bruno, nhà triết học và học giả người Italy, viết quyển Về Vũ trụ Vô hạn và Các Thế giới, bác bỏ quan niệm Aristotle về một vũ trụ địa tâm và nêu lí thuyết rằng vũ trụ là vô hạn với một số vô hạn các thế giới. Ông bị thiêu trên giàn hỏa vào năm 1600 vì từ chối rút lại quan điểm của mình.

1585

Giovanni Benedetti, nhà toán học người Italy, viết quyển Diversarum Speculationum Mathematicarum, và mô tả việc sử dụng gương lõm và thấu kính lồi để hiệu chỉnh hình ảnh.

1589

Từ bỏ suy nghĩ được chấp nhận của thời đại, nhà vật lí và nhà thiên văn học người Italy Galileo Galilei đề xuất các lí thuyết chuyển động mâu thuẫn với lí thuyết của Aristotle. Ông ghi lại các lí thuyết và kết quả thực nghiệm của mình trong quyển De motu (Về Chuyển động).

1590

Nhà chế tạo kính nghiên cứu Hà Lan Zacharias Janssen và cha của ông, Hans, phát minh ra chiếc kính hiển vi ghép đầu tiên. Dụng cụ sử dụng một vật kính lồi và một thị kính lõm.

1596

David Fabricius (Hà Lan) thực hiện quan sát đầu tiên được ghi nhận về một sao biến quang, Mira Ceta (còn gọi là Omicron Ceti) nhưng nhầm lẫn nó là một sao siêu mới khi nó lu mờ dần khỏi tầm nhìn.

Còn tiếp...

Phần trước | Phần tiếp theo

Mời đọc thêm