|
|
Sinh | 7 tháng 11 năm 1867 Warsaw, Vistula, Đế quốc Nga |
---|---|
Mất | 4 tháng 7 năm 1934 (66 tuổi) Passy, Pháp |
Quốc tịch | Ba Lan, Pháp |
Ngành | Vật lí, Hoá học |
Học trường | University of Paris ESPCI |
Người hướng dẫn LATS | Henri Becquerel |
Các sinh viên nổi tiếng | André-Louis Debierne Óscar Moreno Marguerite Catherine Perey |
Nổi tiếng v́ | Phóng xạ, polonium, radium |
Giải thưởng |
Nobel Vật lư (1903) Davy Medal (1903) Matteucci Medal (1904) Nobel Hóa học (1911) |
Người phụ nữ duy nhất được trao 2 Giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau . |
Marie Curie (Maria Skłodowska-Curie; 7 tháng 11, 1867 – 4 tháng 7, 1934) là một nhà hóa học người Pháp gốc Ba Lan và một người đi đầu trong ngành tia X đă hai lần nhận giải Nobel (Vật lư năm 1903 và Hóa học năm 1911). Bà đă thành lập Viện Curie ở Paris và Warszawa.
Sinh ra ở Warszawa, Ba Lan, những năm đầu tiên của Marie không được vui lắm v́ bốn năm sau khi chị bà qua đời, mẹ bà cũng qua đời. Marie rất chăm chỉ học tập, có khi bỏ cả ăn và ngủ để học. Sau khi học xong trung học, Marie bị suy nhược thần kinh một năm. V́ là phụ nữ, Marie không được nhận vào trường đại học nào ở Nga hay Ba Lan cho nên bà đă làm người dạy trẻ trong vài năm. Cuối cùng, với sự tài trợ của một bà chị, Marie đến Paris để học hóa học và vật lư tại trường Sorbonne, nơi mà sau này bà trở thành giảng viên phụ nữ đầu tiên.
Tại trường Sorbonne bà gặp và kết hôn với Pierre Curie, một giảng viên khác. Họ cùng nhau nghiên cứu các vật chất phóng xạ, đặc biệt là quặng urani uraninit, có tính chất kỳ lạ là phóng xạ hơn chất urani được chiết ra. Đến 1898 họ đă có giải thích hợp lư: uraninit có một chất phóng xạ hơn urani; ngày 26 tháng 12 Marie Curie tuyên bố sự hiện hữu của chất này.
Sau nhiều năm nghiên cứu họ đă tinh chế vài tấn uraninit, ngày càng tập trung các phần phóng xạ, và cuối cùng tách ra được chất muối clorua (radium chloride) và hai nguyên tố mới. Nguyên tố thứ nhất họ đặt tên là polonium theo tên quê hương của Marie (Pologne theo tiếng Pháp, Polska theo tiếng Ba Lan), và nguyên tố kia tên radium v́ khả năng phóng xạ của nó (radiation).
Năm 1903 bà được nhận giải Nobel vật lư cùng với chồng Pierre Curie và Henri Becquerel cho các nghiên cứu về bức xạ. Bà là người phụ nữ đầu tiên nhận giải này.
Tám năm sau, bà nhận giải Nobel hóa học trong năm 1911 cho việc khám phá ra hai nguyên tố hóa học radium và polonium. Bà cố ư không lấy bằng sáng chế tiến tŕnh tách radium, mà để các nhà nghiên cứu tự do sử dụng nó.
Bà là người đầu tiên đoạt, hay chia cùng người khác, hai giải Nobel. Bà là một trong hai người duy nhất đoạt hai giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau (người kia là Linus Pauling).
Sau khi chồng bà qua đời, dư luận đồn thổi bà có một cuộc t́nh với nhà vật lư Paul Langevin, một người đă có vợ và bỏ vợ, gây ra một cuộc x́ căng đan. Tuy bà là một nhà bác học được coi trọng tại Pháp, dư luận Pháp có phần bài ngoại v́ bà là một người nước ngoài, từ một nơi ít người biết đến (lúc ấy Ba Lan là một phần của Nga) và có nhiều người gốc Do Thái (Marie là một người vô thần lớn lên trong một gia đ́nh Công giáo, nhưng việc đó không ảnh hưởng đến dư luận). Hơn nữa, Pháp lúc đó hăy c̣n rung động về vụ Dreyfus. Điều ngẫu nhiên là sau này cháu trai của Paul Langevin là Michel đă kết hôn với cháu gái của Marie Curie là Hélène Langevin-Joliot.
Trong Đệ nhất thế chiến, bà vận động để có các máy chụp tia X di động để có thể điều trị các thương binh. Những máy này được cung cấp lực từ xạ khí radium, một khí không màu, phóng xạ từ radium, sau này được nhận ra là radon. Marie đă lấy khí này từ radium bà đă tinh chế. Ngay sau khi chiến tranh bắt đầu, bà đă bán giải Nobel làm bằng vàng của ḿnh và của chồng để giúp trong nỗ lực chiến tranh.
Năm 1921, bà đă đến Hoa Kỳ để gây quỹ trong cuộc nghiên cứu radium. Bà được đón tiếp nồng hậu.
Trong những năm cuối cùng, bà thất vọng v́ nhiều nhà thuốc và người làm mỹ dung đă không thận trọng khi dùng các vật chất phóng xạ.
Bà qua đời gần Sallanches, Pháp trong năm 1934 v́ ung thư bạch cầu, chắc chắn là v́ bà đă tiếp xúc với một số lượng bức xạ quá cao trong các nghiên cứu.
Con gái lớn nhất của bà, Irène Joliot-Curie, cũng được trao một giải Nobel hóa học trong năm 1935, một năm sau khi Marie Curie qua đời. Con gái út của bà, Eve Curie, viết một cuốn tiểu sử về Marie sau cái chết của mẹ ḿnh.
Năm 1995, tro xương của bà được đưa vào điện Panthéon, bà trở thành người phụ nữ đầu tiên được an nghỉ tại đây v́ cống hiến của ḿnh.
Trong một thời gian siêu lạm phát trong đầu thập niên 1990, tờ giấy bạc 20.000 zloty của Ba Lan có h́nh bà. Hinh bà cũng đă hiện diện trong tờ 500 franc của Pháp cũng như nhiều tem thư và tiền kim loại.
Nguyên tố số 96, Curium, kư hiệu Cm, được đặt tên để tôn vinh bà và Pierre.
Tên của bà cũng được đặt tên cho 1 trường trung học phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. [1]
Tiếng Anh:
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/wiki/Marie_Curie”
Marie Curie - Nữ bác học lừng danh nhất thế giới
[21/02/2006 - Vatlysupham]
Marie Curie (1867 - 1934) là một trong các nhà
bác học tiền phong nghiên cứu về chất phóng
xạ. Các thành tích của bà rất lớn lao, đă
ảnh hưởng tới các nhà vật lư nguyên tử sau
này và đă được xác nhận bằng hai Giải
Thưởng Nobel lừng danh. Việc khám phá ra neutron
của Sir James Chadwick và tính phóng xạ nhân tạo của
Irène và Fréderic Jolio Curie đều bắt nguồn từ
các công tŕnh khảo cứu của bà Curie. 1. Thuở thiếu thời.
Ngày 7 tháng 11 năm 1867 tại
Cracovie, một thị trấn nhỏ gần thủ
đô Varsovie nước Ba Lan, vợ chồng giáo sư
khoa học Wladislaw Sklodowski đă cho chào đời cô gái út
đặt tên là Marya Sklodowski. Từ khi có mặt cô bé này,
gia đ́nh Sklodowski đă không gặp may mắn và bà mẹ
lại mắc chứng bệnh nan y: bệnh ho lao, v́
vậy, tuy yêu thương các con, bà Sklowdowski không bao
giờ dám ôm hôn chúng. Do thiếu t́nh thương của
mẹ, cô bé Marya thường quấn quít bên người
chị cả là Zosia để nghe các câu chuyện cổ
tích. Ngoài ra, Marya c̣n ưa thích đứng ngắm cái
tủ đựng các dụng cụ khoa học của cha
cô trong đó có bày nhiều thứ: nào các ống
nghiệm, phong vũ biểu, cân tiểu li, những
cục đá địa chất…
Trong hoàn cảnh đó, cô bé Marya đă cắp sách đi học. Mới trông bề ngoài, cô bé không có vẻ ǵ là thông minh, xuất chúng mà trái lại, với khuôn mặt hơi dài, với đôi mắt nâu mơ màng, cô bé c̣n tỏ lộ vẻ hơi đần. Tuy nhiên cô bé Marya nổi tiếng học giỏi từ thuở nhỏ. Luôn luôn kém các bạn từ 2 tới 3 tuổi mà với môn học nào cô cũng đứng đầu lớp: Từ các môn học chính như toán học, lịch sử, văn chương đến những môn phụ như tiếng Pháp, tiếng Đức và cả Thánh Kinh nữa. Năm Marya lên 10 tuổi, người chị thân yêu và cũng là người bạn tâm sự của cô, chị Zosia, đă bị thiệt mạng v́ mắc phải một bệnh truyền nhiễm do các bạn cùng lớp mang tới: bệnh chấy rận. Rồi ít lâu sau, bà mẹ sau nhiều năm bị vi trùng lao phổi tàn phá, đă từ giă cơi đời, để lại cho người chồng gánh nặng nuôi dạy 4 đứa con thơ: một trai Joseph và 3 gái Hela, Bronia và Marya, tất cả trong tuổi đi học. Năm 1883, Marya với tuổi 16, đă học xong ban trung học và tốt nghiệp ra với lời khen thưởng của hội đồng giám khảo. Lúc đó anh Joseph đang theo học tại trường Đại học Y khoa, chị Bronia cũng học xong ban trung học và muốn trở thành bác sĩ nhưng vào thời đó, trường Y khoa không nhận vô các nữ sinh viên, v́ vậy chị phải xin đi dạy học.
Năm 1884, chị Bronia sang Pháp theo học tại Đại học Paris. Sở dĩ chị Bronia chọn nước Pháp một phần v́ Đại học Sorbonne là một trường có nhiều vị giáo sư danh tiếng mà phần lớn cũng v́ nước Pháp là một nước Tự Do, điều mong ước của tất cả sinh viên thế giới thời bấy giờ cũng như đối với mọi thời đại. Ở Pháp, mọi ư kiến dị biệt đều được tiếp nhận, đây quả là điều kiện tất yếu của mọi công việc tiến bộ về Khoa Học và Nghệ Thuật. Trong khi chị Bronia theo hoc để trở thành bác sĩ thú y tại Paris th́ ở Ba Lan, Marya xin được một chân giáo sư tại một vùng quê hẻo lánh.
Nghề gơ đầu trẻ không phải là nghề mà Marya ưa thích. Sau 6 năm trời kéo dài cuộc sống khô khan ấy, đến năm 1891, Marya quyết định viết thư cho chị Bronia, xin chị giúp đỡ nàng sang Pháp du học. Vào ngày lên đường, Marya đă ngập ngừng nói với cha: "Cha ơi, con sẽ không đi lâu, chừng hai hay ba năm học xong, con sẽ trở về sống bên cha măi măi". Nhưng Marya đă không giữ được lời hứa chân thành này. Một nhà bác học, một người chồng, một người bạn tri kỷ đă giữ nàng lại đất Pháp, người đó là Pierre Curie. Khi sống tại Pháp, muốn cho tên ḿnh dễ đọc, Marya đă "phiên âm" tên nàng sang tiếng Pháp thành Marie: Marie Sklodowski. Marie không theo hoc Y khoa, Nha khoa hay Dược khoa là những môn học ưa thích của phụ nữ thời đó. Không hiểu nghĩ sao, nàng lại chọn môn Khoa Học thuần túy. Trong buổi ban đầu gặp khó khăn về ngôn ngữ, Marie đă được sự hướng dẫn của một giáo sư trẻ tuổi, có tài: Giáo Sư Paul Appell. Ngoài ra, nàng c̣n được học hỏi với các Giáo Sư Gabriel Lippmann và Edmond Bouty. Nàng cũng gặp gỡ các nhà vật lư lừng danh thời bấy giờ như Jean Perrin, Charles Maurain và Aimé Cotton… Cuộc sống của một du học sinh thật là vất vả, với một nỗi khó khăn đă ngăn trở sự học, đó là vấn đề tiền bạc: tiền ăn, tiền học, tiền mua sắm, tiền xe buưt ngày hai buổi đi học. Mùa đông tại Paris, trời lạnh như cắt da nhưng nàng Marie can đảm này đă dấn thân vào việc học và Trời đă không phụ công của người có chí: sau ba năm học tập, nàng đă đỗ đầu trong kỳ thi ra trường và được cấp văn bằng Cử Nhân Khoa Học năm 1893 và năm sau, đậu thứ nh́ trong kỳ thi lấy văn bằng Cử Nhân Toán. Học xong, nàng Marie đă định quay về nước nhưng do sự hiểu biết hoàn toàn thuộc về phạm vi lư thuyết, nàng muốn phục vụ Tổ Quốc không phải chỉ với chức vụ Giáo Sư mà bằng tài năng của một kỹ sư, nàng Marie muốn giúp đỡ đồng bào bằng những công tŕnh thực tế hơn. Năm 1893, do sự giới thiệu của bà Dydynska cũng là người Ba Lan, nàng Marie xin được học bổng Alexandrowitch để học về ngành luyện sắt và thép. Nàng được giới thiệụ với một vị Giáo Sư trẻ tuổi, đang khảo cứu về hiện tượng từ tính của các chất gang thép: Giáo Sư Pierre Curie. Pierre Curie sinh ngày 19/4/1859 tại Paris, là con thứ hai của Bác Sĩ Eugène Curie. Năm 16 tuổi, Pierre đă đậu bằng trung học và năm 18 tuổi lại đậu Cử Nhân Khoa Học, rồi được chấp nhận làm Giảng Nghiệm Viên tại Trường Đại Học Paris vào năm 1878. Khi tốt nghiệp đại học ra, ông Pierre Curie đă cùng với người anh là Jacques vùi đầu vào các công cuộc thí nghiệm: Họ nghiên cứu tính áp điện (piezoelectricity) của các tinh thể, đặc biệt là của tinh thể thạch anh (quartz). Năm 1883, anh Jacques được bổ nhiệm làm Giáo Sư tại trường Đại Học Montpellier và Pierre làm giảng nghiệm trưởng của Trường Lư Hóa (Ecole de Physique et de Chimie). Năm 1895, Pierre Curie đậu bằng Tiến Sĩ Khoa Học rồi vào mùa xuân năm 1894, trong thời gian nghiên cứu về hiện tượng điện từ của các chất gang thép, Pierre Curie đă gặp Marie Sklodowski đến học hỏi thêm kinh nghiệm. Khi mới gặp nàng Cử Nhân Khoa Học và Toán Học của trường Đại Học Sorbonne, Pierre đă thấy có cảm t́nh và kính trọng người thiếu nữ tài ba này. Lúc đó Pierre đă 35 tuổi, chàng vẫn sống độc thân v́ c̣n mải mê nghiên cứu. Sau vài lần gặp mặt và thảo luận với Marie về Khoa Học, chàng thấy ngay ở nàng h́nh bóng của người vợ lư tưởng. Đối với Marie, sau khi mối t́nh đầu tại Ba Lan tan vỡ, nàng muốn xóa bỏ chuyện yêu thương. Nàng thấy Pierre rất xứng đáng nhưng v́ c̣n nhớ đến cha già, đến lời thề sẽ học thật nhanh để quay về sống bên cha và phục vụ cho Tổ Quốc Ba Lan, nàng rời Paris. Khi tiễn nàng Marie về nước, Pierre đă nói như van xin: "Cô là người có tài. Cô nên trở lại nước Pháp để nghiên cứu Khoa Học.Cô không có quyền bỏ rơi Khoa Học". Marie Sklodowski là kỹ sư đầu tiên của
nước Ba Lan nhưng vào thời bấy giờ,
người ta không tin tưởng lắm vào tài năng
của phụ nữ nên nàng đă không được
trọng dụng. Quá chán nản, ở quê nhà chưa
đầy một năm, Marie quyết định
trở lại nước Pháp, nàng đă không thể
bỏ rơi Khoa Học, xa cách Pierre. 10 tháng sau, Marie
nhận lời thành hôn với Pierre. Hôn lễ cử hành
rất đơn giản vào ngày 25/7/1895: ngoài những
người thân trong gia đ́nh như Bác Sĩ Eugène là thân
phụ của Pierre, Giáo Sư Sklodowski là thân phụ
của Marie, vợ chồng chị Bronia, anh Jacques, họ
chỉ mời vài người bạn thân thiết.
Tại gia đ́nh mới này, chỉ có Pierre kiếm ra
tiền mà số tiền kiếm ra cũng không nhiều,
c̣n Marie vẫn chưa xin được việc làm, Marie
chỉ là một sinh viên học giỏi, một nhà khoa
học tài ba. Sau hai văn bằng Cử Nhân, nàng Marie
lại đậu thêm văn bằng Thạc Sĩ Khoa
Học rồi tiếp tục nghiên cứu về hiện
tượng từ tính của các chất gang thép. Vào tháng
7 năm 1897, Marie sinh hạ được cô gái
đầu ḷng, đặt tên là Irène. Từ nay, gia đ́nh
Curie lại có thêm nhu cầu mới. May thay, Pierre đă xin
được cho vợ vào làm phụ tá trong pḥng thí
nghiệm Vật Lư của ḿnh và cũng từ nay, bắt
đầu sự nghiệp của nhà nữ bác học
số một trên Thế Giới Nhân được đọc các bài khảo cứu của nhà vật lư Henri Becquerel và sau khi đă hỏi ư kiến của chồng, Marie Curie quyết tâm thám hiểm vào khu rừng vật lư hăy c̣n âm u, ít ai biết tới. Thời bấy giờ, người ta chỉ thấy được những chất lạ có đặc tính là phát ra tia sáng song chưa ai biết được là có bao nhiêu chất như vậy và các chất này cùng các tia của chúng khác nhau như thế nào. Các nhà vật lư đặt tên chung cho các chất kể trên là "chất phóng xạ". Sau khi Roentgen t́m ra quang tuyến X, nhà bác học Henri Becquerel đă nghĩ rằng tia phóng xạ có cùng nguồn gốc với quang tuyến X. Rồi Henri Becquerel dựa vào ư tưởng trên và làm nhiều thí nghiệm với các tia phóng xạ của chất Urane giống như các thí nghiệm đối với quang tuyến X và đă nhận thấy rằng hai tia đó có cùng tính chất. Becquerel tự hỏi tại sao có sự phóng xạ và các chất phóng xạ lấy năng lượng từ đâu, dù rằng năng lượng rất nhỏ, để phân tích mà phát ra tia sáng. Công cuộc khảo cứu của Becquerel mới chỉ là bước đầu. Sự hiểu biết về các định luật phóng xạ phải đợi hai thiên tài Pierre và Marie Curie mới phát kiến ra được. Mới nghiên cứu trong ít lâu, bà Marie Curie đă nhận thấy rằng không phải cả cục Urane có tính phóng xạ mà cục đá đó chỉ chứa một phần rất nhỏ chất phóng xạ mà thôi. Tuy hiểu rằng tỉ lệ chất phóng xạ trong Urane ít, nhưng bà Curie không biết rơ nó là bao nhiêu. Bà cho rằng tỉ lệ đó vào khoảng một phần ngàn. Thật ra về sau, khi người ta được biết chính xác th́ tỉ lệ đó c̣n nhỏ hơn thế nhiều: một phần triệu. Nhưng công lao của ông bà Curie chính là làm cho giới Khoa Học biết rằng có rất nhiều chất phóng xạ khác nhau, dù rằng nhiều chất chỉ là biến thể của nhau và có những chất không phóng xạ như ch́, vàng… cũng là biến thể của các chất phóng xạ. Y kiến này rất quan trọng v́ nhờ đó mà người ta t́m ra được cách phá nhân của nguyên tử và chế tạo ra bom nguyên tử sau này. Khởi đầu, bà Curie t́m ra hai chất phóng xạ khác nhau, chất đầu tiên vào mùa hè năm 1891 và được bà đặt tên là "Polonium" để tưởng nhớ nước Ba Lan thân yêu của bà, chất thứ hai được gọi bằng tên "Radium", khám phá ra vài tháng sau đó. Nhưng các công tŕnh của ông bà Curie chưa được giới Khoa Học chấp nhận ngay. Nhiều kẻ hoài nghi không công nhận có hai chất Polonium và Radium. Họ viện lư rằng mỗi chất đều phải có các lư tính và hóa tính. Vậy th́ nguyên tử khối và phân tử khối của Radium là bao nhiêu? Radium có ái lực với những chất nào? Muối của nó là ǵ? Nó màu ǵ ? Độ chẩy là bao nhiêu? Nhiều câu hỏi đă làm bù đầu hai nhà bác học trẻ tuổi. Muốn trả lời các nhà hóa học đa nghi, Pierre và Marie Curie phải t́m ra Radium nguyên chất. Nguyên liệu có chứa Radium là chất pechblend. Pechblend là một chất dùng trong kỹ nghệ làm thủy tinh. Chất này rất đắt tiền mà lượng Radium ở trong lại không nhiều. Với số tiền lương eo hẹp, hai nhà bác học làm sao có thể tiếp tục công cuộc nghiên cứu? May thay, có một kỹ nghệ gia thủy tinh người Bỉ nghe danh ông bà Curie, đă bằng ḷng chở sang Pháp cho hai nhà bác học hàng xe vận tải vụn pechblend mà nhà máy không dùng tới. Lại thêm một điều may mắn nữa: ông Pierre xin được một căn nhà cũ của Trường Đại Học Khoa Học, hai ông bà Curie liền chứa pechblend và đặt luôn tại đây pḥng thí nghiệm. Trong 4 năm trời từ 1898 tới 1902, sau khi gạn lọc 8 tấn pechblend, hai nhà bác học đă t́m ra được 1 gam Radium nguyên chất. Đây là gam Radium đầu tiên của thế giới và trị giá của nó lên tới 750 ngàn quan tiền vàng. Radium quả là một chất kim đắt giá nhất. Từ nay chất Radium đă chính thức được ông bà Curie "khai sinh", phân tử khối của nó là 225. Năm 1898, Trường Đại Học Sorbonne đang thiếu một chân Giáo Sư Vật Lư. Pierre nộp đơn xin v́ muốn kiếm ra một số lương cao hơn. Nhưng v́ ông không hề học qua một trường cao đẳng sư phạm hay Trường Bách Khoa nào nên ông đă bị từ chối. Năm 1900, ông Pierre Curie xin được một chân Giáo Sư tại Trường Bách Khoa với lương 2,500 quan một năm. Với số lương này, gia đ́nh Curie vẫn chưa đủ tiêu dùng. Trong khi đó, Trường Đại Học Genève, Thụy Sĩ, bỗng nhiên gửi thư mời ông Pierre sang nhận chức Giáo Sư Vật Lư với lương hàng năm 10,000 quan, lại được thêm hai người phụ tá cùng một pḥng khảo cứu đầy đủ dụng cụ. Thật là một may mắn không ngờ. Nhưng tiếc thay, Genève lại ở quá xa, công ty thủy tinh Bỉ không chịu chở pechblend sang đó. Giữa khoa học và tiền bạc, ông Pierre đă chọn Khoa Học và đành viết thư cảm ơn ông Khoa Trưởng Trường Đại Học Khoa Học Genève. It lâu sau, ông Pierre Curie được vị Phó Khoa Trưởng Trường Đại Học Sorbonne mời giảng dạy môn Vật Lư cho chứng chỉ Lư Hóa Nhiên (S.P.C.N.) và bà Curie được nhận làm Giáo Sư Trường Cao Đẳng Sư Phạm (Ecole Normale Superieure) dành cho nữ sinh viên tại Sèvres. Ngân quỹ gia đ́nh đă khả quan, từ nay hai ông bà Curie có thể yên tâm phụng sự cho Khoa Học. Năm 1902, kết quả của công tŕnh khám phá ra chất Radium được công bố. Giáo Sư Mascart do mến tài ông Curie nên đă cố khuyên ông nộp đơn xin vào Hàn Lâm Viện Khoa Học nhưng đến ngày bỏ phiếu, các ông Hàn đă nhận ứng viên đối lập là Amagat. Vào lúc này, Giáo Sư Paul Appell đă được cử làm Khoa Trưởng Trường Đại Học Khoa Học Paris. Muốn an ủi Pierre, Appell xin ông Tổng Trưởng Giáo Dục Pháp ban huy chương danh dự cho nhà bác học và trước khi trao huy chương, Appell đă năn nỉ bà Curie khuyên chồng nên chấp nhận huy chương đó. Nhưng ông Pierre đă từ chối v́ ông chỉ cần một pḥng thí nghiệm, không cần tới một huy chương đeo ngực. Trong suốt cuộc đời, ông Pierre Curie luôn luôn mong mỏi sẽ lập ra được một cơ sở khảo cứu mà tất cả những ai muốn t́m ṭi về chất phóng xạ đều được tự do xử dụng. Sau khi chất Radium được khám phá, danh tiếng ông bà Curie đă vượt ra khỏi nước Pháp. Từ năm 1900, các viện đại học, các trung tâm khảo cứu tại các nước Anh, Đức, Đan Mạch, Hoa Kỳ… đều gửi thư đến hỏi ông bà Curie về chất Radium. Các nhà vật lư đua nhau t́m hiểu về tính phóng xạ như Boltzmann, Crookes, Paulsen, Ramsay… họ đă t́m thêm được nhiều chất mới như Mesothorium, Ionium, Protactinium, ch́ phóng xạ, khí Helium phóng xạ…
Năm 1903, bà Curie được Đại Học Sorbonne trao văn bằng Tiến Sĩ Khoa Học, hạng tối ưu với lời khen ngợi của Hội Đồng Giám Khảo về luận án "Khảo cứu về các chất phóng xạ" và cũng vào năm này, Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh gửi thư mời hai nhà bác học Curie sang diễn thuyết bên nước Anh. Sau đó không lâu, nước Thụy Điển đă biểu quyết chia Giải Thưởng Nobel 1903 về Vật Lư, một nửa dành cho ông Henri Becquerel, một nửa tặng ông bà Curie v́ công tŕnh khám phá ra chất phóng xạ. Ông bà Curie được lănh 10,000 quan tiền vàng. Nhưng khi vừa được tin mừng về Giải Thưởng Nobel, hai nhà bác học lại gặp phải nhiều chuyện bực ḿnh: Những kẻ hiếu kỳ, các phóng viên nhà báo đă bao quanh nhà, làm ồn ào, gây bận rộn cho hai nhà bác học. Ông bà Curie vốn ưa thích sự yên tĩnh để làm việc, nên đă không khỏi khó chịu khi các kẻ hiếu kỳ muốn coi ông bà như những minh tinh màn bạc. Bà Curie đă phải nói: "Về Khoa Học, chúng ta chỉ nên để ư đến sự vật mà đừng nghĩ tới nhân vật". Sau khi các nước ngoài nhận rơ chân tài, ông Pierre Curie mới được nước Pháp biết đến. Năm 1904, ông được Viện Trưởng Đại Học Sorbonne bổ nhiện làm Gáo Sư Vật Lư thực thụ. Trước khi nhận lời, ông đưa ra yêu cầu lập nên một pḥng thí nghiệm. Lần này, Bộ Giáo Dục Pháp không c̣n làm những chuyện viển vông như gắn huy chương cho nhà bác học nữa, mà bằng ḷng xây dựng một trung tâm nghiên cứu, chấp nhận cho nhà nữ bác học Curie làm trưởng pḥng Vật Lư, dưới quyền chồng và lại cho thêm hai nhân viên phụ tá. Cũng vào năm 1904, hai nhà bác học có thêm một tin mừng khác: Bà Curie vừa sinh hạ cô gái thứ hai và cũng là cô gái út: Eve Curie. Năm 1905, ông Pierre Curie được bầu vào Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp (Academy of Sciences). Nhưng vinh quang không đến với nhà bác học được lâu. Ngày 19 tháng 4 năm 1904, sau khi rời nhà xuất bản Gauthier-Villars để về nhà, không rơ ông Pierre Curie bận tâm suy nghĩ điều ǵ trong lúc băng qua đường, ông đă bị xe ngựa cán phải, vỡ óc chết ngay trên đường Dauphine tại Paris. Ông Pierre Curie đă là một nhà vật lư học xuất sắc, một trong các vị sáng lập ra nền Vật Lư Mới. Để ghi nhớ nhà bác học Pierre Curie, ngày 13 tháng 5 năm 1906, Trường Đại Học Sorbonne đặc cách mời bà Curie thay chồng trong chức vụ Giảng Sư. Bà Marie Curie là nữ Giáo Sư đầu tiên của Trường Đại Học Sorbonne, Paris. Bà Marie Curie trở nên Giáo Sư thực thụ của
Trường Đại Học Sorbonne vào năm 1908.
Cũng vào năm này, bà cho xuất bản cuốn sách nhan
đề là "Các Công Tŕnh
của Pierre Curie". Năm 1910, tác phẩm
"Khảo cứu về tính phóng
xạ" (Traité de Radioactivité) dày 960 trang của
bà Marie Curie đă là công tŕnh chứa đựng những
kiến thức khoa học mới mẻ nhất của
thời kỳ đó về ngành học phóng xạ. Danh tiếng của bà Marie Curie vang lừng. Rất nhiều trường Đại Học ở ngoại quốc gửi tặng Bà các văn bằng Tiến Sĩ Danh Dự. Năm 1910, nước Pháp dự định tặng bà huy chương Hiệp Sĩ nhưng bà Curie đă từ chối v́ nghĩ tới thái độ của ông Curie khi trước. Vài tháng sau, nhiều người bạn đă khuyên bà ra tranh cử vào Hàn Lâm Viện Khoa Học. Cổ động cho bà có nhà đại bác học Henri Poincaré, Bác Sĩ Roux, Giáo Sư Emile Picard, các Giáo Sư Lippmann, Bouty và Darboux… nhưng tới kỳ bầu cử, vật lư gia Edouard Branly thắng phiếu. Phải chăng các ông Hàn vẫn c̣n mặc cảm đối với phụ nữ nên bà Curie không được thu nhận? Lại một lần nữa, nước Thụy Điển sửa chữa những lỗi lầm của nước Pháp: Tháng 12 năm 1911, bà Marie Curie được tặng thêm một giải thưởng Nobel về Hóa Học v́ công tŕnh t́m ra chất Radium. Bà Curie là người duy nhất đă lănh hai lần giải Nobel, hơn hẳn các nhà bác học xưa và nay, kể cả nam lẫn nữ. Từ năm 1911, các nhà trí thức Ba Lan có ư định thiết lập ở Varsovie một cơ sở khảo cứu về chất phóng xạ và họ định mời bà Marie Curie về nước, điều khiển trung tâm khảo cứu này. Tháng 5 năm 1912, một phái đoàn các giáo sư Ba Lan sang Pháp, t́m gặp bà Curie. Bà Marie Curie vào lúc này bị lôi kéo giữa ḷng nhớ cố hương và các kỷ niệm về ông Pierre với ước vọng một Viện Radium khi đó đang được xây dựng tại thành phố Paris. Cuối cùng bà Curie đă gửi thư từ chối. Bà đặt tin tưởng vào tài năng nghiên cứu của hai người Ba Lan đă từng phụ tá cho bà. Năm 1913, bà Marie Curie sang Ba Lan dự lễ khánh thành cơ sở khảo cứu chất phóng xạ. Bà đă diễn thuyết về Khoa Học bằng tiếng mẹ đẻ trước một thính giả rất đông đảo. Tháng 7 năm 1914, Viện Radium Paris được xây dựng xong tại đường Pierre Curie. Đây là "Lâu Đài của Tương Lai", nơi mà trước kia ông Pierre Curie đă hằng mong ước được sống tại đó để nghiên cứu, t́m ṭi, và giờ đây, bà Marie tiếp tục sở nguyện của chồng. Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ. Khác với nhiều phụ nữ, bà Curie không xung vào các đoàn nữ y tá mà lại nghĩ tới sự thiếu thốn của các nhà thương về pḥng chiếu quang tuyến. Bà liền lắp máy lên một chiếc xe hơi rồi cùng với người con gái Irène, dùng xe quang tuyến này, đi chăm sóc các thương binh tại nhiều mặt trận. V́ số thương binh càng ngày càng tăng, bà Marie Curie đă phải lắp thêm 220 pḥng quang tuyến ở cả trên xe lẫn dưới đất. Bà lại dùng cả gam Radium duy nhất và vô giá vào việc điều trị các nạn nhân chiến tranh. Ngoài ra, nhu cầu về các chuyên viên quang tuyến khiến bà Curie đề nghị với Chính Phủ Pháp mở gấp một lớp huấn luyện. Chương tŕnh này được thực hiện tại Viện Radium và các giáo sư giảng dạy gồm có bà Curie, cô Irène Curie và cô Marthe Klein. Năm 1918, Thế Chiến chấm dứt, mang lại ḥa b́nh trên đất Pháp và nền độc lập cho xứ Ba Lan, sau một thế kỷ rưỡi bị đô hộ. Trong nhiều năm trời, bà Curie đă mang hết năng lực và tiền bạc đóng góp vào công cuộc chống ngoại xâm. Bà đă tặng Chính Phủ Pháp số tiền thưởng Nobel. Chiến tranh đă làm cho công cuộc khảo cứu của bà bị gián đoạn và sức khỏe của bà bị suy giảm. Vào tháng 5 năm 1920, bà Marie Curie tiếp nữ phóng viên William Brown Meloney. Trong câu chuyện, bà Curie cho biết đang cần có một gam Radium để tiếp tục công cuộc khảo cứu mà thứ kim chất đó lại quá đắt tiền. Vừa cảm động, vừa kính phục, bà Meloney khi trở về Hoa Kỳ liền mở một cuộc lạc quyên các phụ nữ Mỹ để mua Radium tặng nhà nữ bác học. Bà Meloney lại khẩn khoản mời bà Curie sang Hoa Kỳ, song bà Curie rất e ngại đám đông, e ngại sự quảng cáo thanh danh, nhưng cuối cùng, bà đành phải nhận lời. Đầu tháng 5 năm 1921, bà Marie Curie cùng hai cô con gái xuống tầu Olympic sang châu Mỹ. Ngày 20 tháng 5, Tổng Thống Hoa Kỳ Warren G. Harding đă trân trọng biếu bà Marie Curie một gam chất Radium. Tại Philadelphia, bà Curie được trao tặng các bằng cấp danh dự, các quà biếu, 50 gam chất Mesothorium và Huy Chương John Scott của Hội Triết Học Mỹ Quốc. Ngoài ra, bà Curie c̣n là Tiến Sĩ Danh dự của các Trường Đại Học Pittsburg và Columbia. Bà Curie xuống tầu về nước vào ngày 28 tháng 6 năm đó. Do sự phát minh ra cách trị liệu bằng chất phóng xạ, đầu năm 1922, Hàn Lâm Viện Y Học Paris đă bầu bà Curie làm hội viên. Tháng 2 năm đó, bà Curie cũng trở thành nhà nữ bác học đầu tiên của Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp. Danh tiếng bà Marie Curie vang lừng. Bà được hân hoan đón tiếp tại A Căn Đ́nh, tại Y, Ḥa Lan, Bỉ, Tiệp Khắc… Ngày 15/5/1922, Hội Quốc Liên chỉ định bà Marie Curie làm hội viên của Tổ Chức Giáo Dục Quốc Tế. Nguyện vọng của bà Marie Curie là được thấy một Viện Radium thành lập tại Varsovie. Dự án xây dựng thành h́nh vào năm 1925 và bà Curie đă sang Ba Lan để đặt viên đá đầu tiên cho Viện. Khi xây dựng xong, Viện Radium Varsovie lại thiếu Radium để nghiên cứu. Tháng 10 năm 1929, bà Marie Curie lại sang Hoa Kỳ. Tại đây, bà được đón tiếp rất trọng thể chẳng kém ǵ lần đi trước và nước Hoa Kỳ một lần nữa lại giúp đỡ nhà nữ bác học. Ngày 29/5/1932, Viện Radium Ba Lan được khánh thành đúng theo ư nguyện của nhà nữ bác học lừng danh. Khi đă ngoài 60 tuổi, bà Marie Curie vẫn c̣n hăng hái làm việc mỗi ngày 12 giờ. Dưới sự hướng dẫn của bà từ năm 1919 tới năm 1934, 483 tác phẩm khoa học đă được các nhà vật lư và hóa học của Viện Radium phổ biến, và trong số các công tŕnh nghiên cứu khoa học này, riêng bà Curie có 31 tác phẩm. Từ tháng 12 năm 1933, sức khỏe của bà Curie đă suy giảm. Bà đành phải ăn uống theo lời chỉ dẫn của bác sĩ và đôi khi, bà trở về miền quê để sống trong bầu không khí an lành. Rồi trong một chuyến đi chơi vào tháng 5 năm 1934, bà Curie bị cảm lạnh. Mặc dù lời khuyên cần tĩnh dưỡng của bác sĩ, bà vẫn làm việc v́ luyến tiếc thời giờ khảo cứu trong pḥng thí nghiệm. Bà Curie bị cảm lại. Bệnh trạng kéo dài hàng tháng. Người ta nh́n thấy bà nằm liệt giường trong bộ y phục màu trắng với bộ tóc bạc trắng như tuyết, và dưới vầng trán cao rộng, hai mắt bà nhắm lại, hai cánh tay buông xuôi để lộ ra hai bàn tay xương xẩu đă bị các tia phóng xạ ăn loang lổ nhiều chỗ. Bà Marie Curie tắt thở vào ngày 04 tháng 7 năm 1934 tại bệnh viện Sancellemoz, mặc dù các bác sĩ tài danh tận tâm chữa trị. Bà Marie Curie đă chết v́ bệnh hoại huyết (leukemia) do chính các tia phóng xạ từ chất Radium phát ra. Trưa ngày thứ Sáu, 06 tháng 7 năm 1934, tang lễ của nhà nữ bác học đă được cử hành tại nghĩa địa Sceaux. Quan tài của bà được đặt lên quan tài của ông Pierre Curie, đúng theo ư nguyện của bà là được gần chồng lúc sống cũng như lúc chết. Bà Marie Curie là nhà nữ bác học lừng danh đầu tiên của thế giới khoa học. Bà đă đi tiên phong trong công cuộc khảo cứu chất phóng xạ. Ngoài việc phụng sự Khoa Học, bà Marie Curie c̣n là một nữ công dân có ḷng ái quốc nhiệt thành, không những đối với Quê Hương mà c̣n với cả Tổ Quốc mà bà nh́n nhận. Bà Marie Curie quả là nhân vật đă thực hiện hoàn toàn câu nói của Đại Văn Hào người Pháp Victor Hugo: "Phụng sự Tổ Quốc mới chỉ là một nửa. Nửa kia là phụng sự Nhân Loại ". |
PIE-MARI CURI(1859 - 1906; 1867 - 1934) |
---|
Pie và Mari Curi, hai nhà bác học vĩ đại của Pháp đă mở đầu một kỷ nguyên mới trong vật lí học, kỷ nguyên phóng xạ. Pie Curi sinh năm 1859 trong một gia đ́nh thầy thuốc. Cha của ông, bác sĩ Curi đă tham gia chiến tranh Pháp- Phổ từ năm 1870. Khi c̣n nhỏ, Pie giúp cha và anh cả Giắccơ (Jacques), chuyển tải những người bị thương đến bệnh viện do các bác sĩ Curi lập ra trong khu nhà của ông. ĩ
Pie không hề biết trường tiểu học, trường trung học v́ đă có bác sĩ Curi làm thầy dạy đầu tiên của ông. Sự giáo dục ông nhận được ở gia đ́nh đă sớm làm phát triển nơi ông ḷmg ham thích nghiên cứu khoa học. Cậu đă học được về lịch sử và văn học trong khi đọc say mê những cuốn sách trong tủ sách của cha. Người cha cũng dạy cho cậu toán học. Các buổi đi dạo băng qua những cánh đồng mà cậu rất thích đă mở ra cho cậu bé nhiều bí ẩn của thiên nhiên mà câu trả lời có thể t́m thấy trong các sách giáo khoa sinh học.
Mười sáu tuổi, Pie đă qua các kỳ thi và năm 18 tuổi đă đậu cử nhân. Hai anh em rất thương nhau, sống nhiều với nhau. Ngày ngày họ bận công việc nghiên cứu căng thẳng, nhưng những ngày chủ nhật… Ôi! thật là bổ ích đối với họ sau những tuần lễ lao động nặng nề. Họ bơi lội giỏi, thích các cuộc đi bộ. Ở vào độ tuổi phần lớn các nhà bác học c̣n là sinh viên th́ hai thanh niên này đă khám phá một hiện tượng mới đó là áp điện (piézo- électricicé).
Năm 1883, Pie được bổ nhiệm làm giáo sư Trường Vật lí ở Pari. Ông tiếp tục nghiên cứu và năm 1884, xuất bản Nguyên lí đối xứng về sau trở thành một trong những cơ sở của khoa học hiện đại. Khoảng 1892, người ta thấy ông nghiên cứu những tính chất từ của vật ở những nhiệt độ khác nhau. Ông đă nêu lên một định luật rất quan trọng gọi là “định luật Curi”. Nhà bác học rụt rè và thầm lặng này chỉ cảm thấy dễ chịu trong một pḥng thí nghiệm của ḿnh, sống rất khiêm tốn với đồng lương 300 phrăng một tháng (bằng lương công nhân giỏi). Năm 1894, một buổi chiều mùa xuân ông đến thăm gia đ́nh giáo sư Kôvanxki (Kovalski) người Ba Lan, tại đây ông rất được quí mến. Cũng ở nơi này, ông gặp một nữ sinh viên trẻ Ba Lan, Mari Xklôđaoxka (Skolodowska), người vợ tương lai của ông.
Mari Xklôđaoxka sinh tại Ba Lan. Là con gái của một thầy giáo, Mari được nuôi dưỡng trong một gia đ́nh siêng năng chăm chỉ.
Vào thời kỳ này, nước Ba Lan không có tên trên bản đồ Châu Âu: Lănh thổ của nó bị chia cắt bởi ba nước lớn: Áo, Phổ và Nga.
Mari là một nhà yêu nước vĩ đại; bà yêu tha thiết quê hương bị chia cắt của ḿnh và muốn phục vụ dân tộc của bà đang bị áp bức.
Là học sinh cần mẫn và rất có năng lực, bà đă làm ngạc nhiên nhiều giáo sư do sự hiểu biết của bà.
Mari muốn tiếp tục học tập ở Trường Cao Đẳng, nhưng hai lư do đă ngăn cản bà. Thứ nhất, trong nước Nga sa hoàng, phụ nữ không có quyền học đại học; thứ hai, gia đ́nh khá nghèo và Mari phải làm việc để giúp cha nuôi sáu người con. Mari làm cô giáo trong một gia đ́nh giàu quư tộc. Cô gái trẻ 19 tuổi này rất đẹp và rất có duyên; đôi mắt lóng lánh màu trời xanh, mái tóc màu hung và rất dày có vẻ nặng đối với cái đầu đẹp của cô.
Một điều không may xảy đến. Cô yêu người con trai của thầy, Casimia. Anh cũng không hờ hửng và đôi bạn trẻ nghĩ đến ngày đám cưới. Nhưng cha mẹ của người thanh niên phản đối: trong gia đ́nh quí tộc này, đám cưới được xem như một cuộc buôn bán và cô gái trẻ lại chỉ là một trưởng giả nghèo. Mari phải rời khỏi căn nhà đó, nơi nàng đă trải qua một sự tỉnh ngộ khá độc ác.
Sau nhiều dành dụm và thiếu thốn, cô có được một số tiền và muốn thực hiện ước muốn của ḿnh: làm nữ sinh viên ở Đại học Xotbôn (Sorbone).
Cô đă đến Pari. Cô gái Ba Lan rất đẹp và cũng rất cứng đầu này đă được mục đích của ḿnh, cô đă ghi danh ở đại học. Những lao động căng thẳng và nặng nhọc bắt đầu. Mari sống rất khiêm tốn. Cô ở một căn pḥng nhỏ. Đồ đạc rất đơn giản: một chiếc giường sắt, một bàn gỗ, một ghế bếp. Một chiếc rương dùng làm tủ áo, tủ bát và cả ghế tựa khi có khách. Cô c̣n có một ḷ nấu nhỏ và một chiếc đèn dầu. Trong pḥng của cô luôn luôn rất lạnh. Những bữa ăn cũng rất thiếu thốn: một mẫu bánh ḿ, một chút bơ, vài trái cây và nước trà. Chiếc áo dài rất đơn sơ, và đôi giày đă ṃn gót. Chính vào lúc này cô gặp nhà bác học Pie Curi.
*****
Pie là một người giàu cảm xúc. Anh chăm chú nh́n cô gái có đôi bàn tay đă cháy nám v́ acid của pḥng thí nghiệm và hiểu rằng cô thích khoa học, cô đang ôm ấp những ư nghĩ mới phát sinh từ trong cái đầu đẹp và hay suy tư ấy. Cuộc đàm thoại của họ dẫn đến một số vấn đề khoa học. Mari cảm động nhưng đă chứng tỏ một hiểu biết sâu sắc đối với một cô gái 27 tuổi.
Pie được phép đến thăm cô. Một t́nh bạn diệu dàng phát sinh… và đă biến thành một t́nh yêu cao nhă, tận tâm. Năm 1895, họ làm đám cưới. Cuộc sống của hai người chẳng phải giàu có ǵ. Pie được 6000 phrăng mỗi năm, Mari th́ chuẩn bị thi thạc sĩ và theo đuổi nghiên cứu các nam châm.
Phát minh của Baccơren đă định hướng công việc của họ một cách mới mẻ. Họ muốn xác định nguồn gốc và bản chất của các tia bí mật.
Vị Hiệu trưởng Trường Vật lí đă giao cho ông bà sử dụng cái xưởng nhỏ mà ở đó mùa hè th́ quá nóng bức, c̣n mùa đông th́ quá lạnh. Nhưng cả cái lạnh và cái nóng cũng không cản nổi hai nhà bác học t́m ṭi khảo cứu. Họ khám phá có những chất khác, ngoài uranium cũng có khả nămg phát ra các tia. Mari gọi hiện tượng này là sự phóng xạ . Một giả thuyết phát sinh: nhất định trong tự nhiên phải có những nguyên tố khác mà sự bức xạ mạnh hơn sự bức xạ của Uranium rất nhiều. Và ông bà Curi bắt đầu nghiên cứu các nguyên tố giả thuyết này.
Tháng 7 năm 1898… Mari để tay lên một trong các nguyên tố đó. Bà đặt cho nó cái tên là Pôlônium để tưởng nhứ đến tổ quốc của bà đă bị xóa mất tên trên bản đồ thế giới và c̣n để cho việc t́m kiếm một nguyên tố, như các thí nghiệm đă chứng minh, là giàu bức xạ hơn các nguyên tố đă biết rất nhiều. Với số tiền dành dụm nhỏ bé của ḿnh, hai nhà bác học đă mua được 1000 kilôgam khoáng chất và bắt đầu một công tŕnh khổng lồ. Với đôi bàn tay của ḿnh, Mari đă nhào trộn 20 kilôgam vật liệu cùng một lúc, phải di chuyển những thùng chứa lớn, sử dụng nhiều acid rất mạnh… Bà t́m kiếm “chất rất bí mật và rất hoạt động này”. Bà phải có được nó trong t́nh trạng nguyên chất!
Bốn mươi lăm tháng trôi qua. Năm 1902 đă đến. Một buổi tối đẹp trời, hai ông bà Curi sau một ngày lao động, xuống xưởng và… phát hiện nguyên tố mới phóng xạ rất mạnh. Chính nó, chính nguyên tố này đă làm cạn kiệt sức lực của hai nhà bác học. Họ đặt tên nó là rađium (radium). Mari đă bật khóc v́ sung sướng. Nguyên tố rađium phóng xạ mạnh hơn uranium cả triệu lần, nó không chỉ phát ra những bức xạ mà cả nhiệt lượng và ánh sáng.
Khám phá của hai bợ chồng Curi là một cuộc cách mạng mới trong khoa học. Tất cả những thuyết trước đó về cấu tạo chất bị lật đổ. Nguyên tử, bây giờ người ta đă thấy rơ nó, dầu vậy vẫn c̣n nhiều bí ẩn đối với các nhà bác học.
Ngày 25 tháng 6 năm 1903, Mari Curi nhận học vị tiến sĩ khoa học vật lí và đến tháng 12 cùng năm ấy Viện hàn lâm khoa học Xtôckhom trao tặng giải thưởng Nôben vật lí một nửa cho nhà bác học Beccơren, và một nửa cho ông bà Curi v́ đă khám phá hiện tượng phóng xạ.
Từ Xtôckhom trở về, hai nhà bác học tiếp tục công việc nặng nhọc của ḿnh chỉ thỉnh thoảng mới bằng ḷng những lúc nghỉ ngơi ngắn.
Ngày 19 tháng 4 năm 1906, trời mưa và lạnh. Pie Curi vội vă đến nơi có cuộc gặp gỡ quan trọng. Ông muốn băng qua đường. Nhưng vào lúc đó, một chiếc xe vận tải nặng có hai con ngựa kéo, tông phải nhà bác học. Ông trượt chân rồi ngă xuống và.. một tiếng la hoảng hốt từ đám đông. Chiếc xe vận tải lớn đă cán lên đầu nhà bác học. Người ta đỡ thân thể ông lên hăy c̣n nóng. Người lái xe không cầm được nước mắt. Đoàn người sửng sốt kinh hoàng. Hai con ngựa cũng lấy chân dậm đất. Pie Curi không c̣n nữa!
Mari vô cùng đau đớn, nhưng bà cần phải sống. Sống v́ khoa học, v́ hai con gái nhỏ, v́ các sinh viên của bà đang chờ đợi.
Bà phải soạn thảo giáo tŕnh vật lí. Ngày 25 tháng 11, ngày khai giảng. Người phụ nữ đầu tiên tại Pháp được giao nhiệm vụ giảng dạy cao cấp, sắp nói chuyện trong giảng đường đại học Xotbôn…
Mari Curi theo đuổi nghiên cứu khoa học và được Giải thưởng Nôben lần thứ hai! Như vậy, Mari Curi, người mà cuộc sống đă không dành cho ân huệ ǵ, là người phụ nữ đầu tiên được giải thưởng Nôben và là nhà bác học đầu tiên đă được giải thưởng này lần thứ hai.
Thời gian trôi qua. Tháng tám 1914… Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Mari đem những phát minh của ḿnh phục vụ con người. Với con gái của bà là Iren, bà đi từ bệnh viện nằy đến bệnh viện khác với chiếc xe X quang và đă cứu sống hàng ngàn người bị thương.
Bốn năm chiến tranh trôi qua trong công tác nặng nhọc. Vinh quang đem đến cho bà niềm vui gấp bội: Đó là nền ḥa b́nh mà bà đă đấu tranh hết sức ḿnh và sự biết ơn của tổ quốc bà. Ba Lan, một nước độc lập, xuất hiện trên bản đồ thế giới.
Sau chiến tranh, Mari được bổ làm viện trưởng Viện rađium. Bà có thể sẽ rất vui mừng nếu sức khỏa không bị đe dọa. Bà coi thường chướng mù ḷa và mắc bệnh ung thư. Nhưng người phụ nữ này, rất mỏng manh mà lại rất vững mạnh, đă nổi tiếng trên toàn thế giới. Bà trỏ thành tượng trưng cho khoa học, cho phục vụ ḥa b́nh. Mari, đă hết ḷng mong muốn phục vụ quê hương, năm 1925 bà đến đặt viên đá đầu tiên xây dựng Viện rađium ở Vacsavavaf bà kêu gọi đồng bào của ḿnh: “Mỗi người xin góp giá một viên gạch để xây dựng trung tâm nghiên cứu khoa học này”. Bản thân bà cũng tặng một món quà “nhỏ” cho viện: một gam rađium (trị giá vài triệu đ̣ng phơrăng).
Bà lại tiếp tục công việc, nghiên cứu, những bài viết cho các tạp chí khoa học. Nhưng bệnh tật cứ làm hao ṃn sức khỏe của bà. Bà bị bệnh bạch cầu. Mari Curi, người phụ nữ lao động không mệt mỏi, cuối cùng đă chụi yên nghĩ. Bà nằm trên giường…để không c̣n rời đi nữa. Buổi sáng ngày 13 tháng 7 năm 1934 trái tim cao cả của người ngừng đập.
(Nguồn: Internet)