Lise Meitner(1878 - 1968), nữ bác học lừng danh thứ hai
Vào thời
đại Cổ Hy Lạp, Democritus (460-370 tr. CN) khi
khảo sát sự vật, đă cắt nghĩa nhiều
hiện tượng vật lư bằng lư thuyết nguyên
tử. Theo Democritus, vật chất được cấu
tạo bởi những phần tử cực nhỏ không
thể phân chia được gọi là “nguyên tử”.
Một vật nặng là do có nhiều nguyên tử cấu
kết lại, trong khi ở vật nhẹ, các nguyên tử
được sắp xếp thưa thớt.
Lư thuyết của
Democritus đă không tiến triển được xa và
bị các nhà khoa học dần dần quên lăng trong gần
24 thế kỷ cho tới cuối thế kỷ 19, lư thuyết
nguyên tử được các nhà vật lư xét lại. Sau
khi tính phóng xạ của vài vật thể được
khám phá, các nhà khoa học nhận thấy rằng trong nguyên
tử c̣n có nhiều thành phần nhỏ hơn. Các nhà khoa
học đă gặp một lănh vực mới để
khảo cứu: ngành nguyên tử học.
Trong số những nhân vật góp công vào ngành học này, có
hai nữ bác học được toàn thể thế
giới biết tên, đó là Marie Curie và Lise Meitner.
Trong khi bà Marie Curie đă nổi danh trên thế giới khoa
học th́ Lise Meitner c̣n là một cô sinh viên thuộc
trường đại học của thành phố Vienna. Cô
thiếu nữ này đă yêu thích toán học và vật lư ngay
từ khi c̣n nhỏ tuổi. Cô chào đời tại Vienna
và là con của một luật gia. Cũng như 6 anh
chị em kia, Lise Meitner theo dần các lớp ở bậc
trung học rồi lên tới cấp đại học khi
c̣n quá trẻ.
Thật là may mắn cho Lise được theo học môn
Vật Lư với Giáo Sư Ludwig Bolzmann. Vào thời bấy
giờ các nhà vật lư chia làm hai phe, một phe phủ
nhận lư thuyết nguyên tử c̣n phe kia cố gắng
đào sâu các kiến thức về một thế giới
cực nhỏ. Giáo Sư Bolzmann thuộc về phe thứ
hai. Ông tin rằng các khám phá về chất phóng xạ
sẽ chứng tỏ sự hiện hữu của nguyên
tử.
Sau một thời gian theo học tại trường
Đại Học Vienna, Lise Meitner đậu Tiến Sĩ
Vật Lư vào năm 1906 và là phụ nữ thứ hai có
văn bằng cao cấp như vậy. Năm 1907, Lise
Meitner tới Berlin để theo đuổi ngành Vật Lư
một cách sâu rộng. Vào thời kỳ này, trường
Đại Học Berlin có một nhà đại bác học
giảng dạy: ông Max Planck (1858-1947, Giải Nobel 1918).
Meitner đă được Max Planck hướng dẫn
trong các bài toán và các công cuộc nghiên cứu. Ngoài ra, v́
đă khảo sát chất phóng xạ tại Vienna, Lise Meitner
quyết định tiếp tục con đường này
khi cộng tác với nhà hóa học trẻ tuổi Otto Hahn
tại Viện Emil Fischer ở Berlin.
Vào thời đó, Viện Fischer đă không cho phép phụ
nữ bước chân vào pḥng thí nghiệm của Viện.
Nhờ ḷng tốt của Hahn, Meitner được tới
khảo cứu chất phóng xạ trong một căn pḥng
thí nghiệm bằng gỗ của nhà hóa học này. Chính tài
năng của Otto Hahn cũng ảnh hưởng rất
nhiều đến khả năng phát triển khoa học
của Lise Meitner, v́ thế hai người đă trở nên
đôi bạn thân.
Trong nhiều năm trường, Lise Meitner đă đo
cường độ của các tia phóng xạ và thực
hiện nhiều khảo sát trong căn pḥng thí nghiệm
bằng gỗ với các dụng cụ quá thô sơ v́ không
có ngân khoản thường niên. Tới khi Otto Hahn
được lên làm việc tại pḥng khảo cứu
hóa học trên lầu một của Viện Fischer th́
cũng tại nơi đây, Lise Meitner được phép
theo đuổi công tŕnh nghiên cứu.
Qua năm 1912, Otto Hahn sang làm việc tại Viện Hoàng
Đế Wilhelm khi Viện này mới được thành
lập và được coi như một phần của
trường Đại Học Berlin. Vào năm này, Lise Meitner
sang giúp Max Planck trong công cuộc t́m hiểu môn Vật Lư Lư
Thuyết.
Năm 1917, một phân khoa Hóa Học được thành
lập tại Viện Wilhelm (The Kaiser Wilhelm Institute of
Chemistry, sau đổi tên là The Max Planck Institute of Chemistry),
Lise Meitner được mời sang làm Khoa Trưởng.
Từ nay, bà Meitner có thể làm nghiên cứu thảnh
thơi, không c̣n e ngại sự cấm đoán của
những người đă quan niệm sai lầm về khả
năng phục vụ Khoa Học của phụ nữ.
Tại Viện Hoàng Đế Wilhelm, Lise Meitner đă theo sát
các tiến bộ của ngành Vật Lư Nguyên Tử.Các công
tŕnh của Lise Meitner được giới khoa học
biết tới từ năm 1920 sau khi bà và Otto Hahn cùng khám
phá ra chất phóng xạ đồng vị Protactinium (the
isotope protactinium-231).
Tất cả các nhà khoa
học đă coi bà là một nhà bác học có đầy
đủ kiến thức sâu rộng về ngành Vật Lư
Nguyên Tử.
Từ năm 1868, nhà hóa học Nga Mendeleyev (1834-1907) đă
xếp hạng các đơn chất theo trọng
lượng nguyên tử. Tới khi bà Marie Curie t́m ra
được chất Radium th́ bảng Mendeleyev lại có
thêm một đơn chất mới với nguyên tử
số là 88. Sau đó, thế giới nguyên tử đă
được các khoa học gia biết tới với các
protons và electrons. Tới năm 1932, neutrons được
khám phá. Năm 1934, Enrico Fermi đă dùng neutrons để
bắn vào nhân nguyên tử Uranium, ông ta lấy
được một chất mới mà trọng
lượng quá nhỏ, không thể cân đo
được. Cuộc thí nghiệm này của Enrico Fermi
đă làm cho nhiều nhà vật lư đương thời
chú ư, trong đó có Lise Meitner. Khi Lise Meitner và Otto Hahn cùng
bắt tay vào việc thực hiện lại thí nghiệm
của Enrico Fermi với một phương pháp hoàn toàn khác
lạ th́ họ được một nhà hóa học
tới hợp tác: Fritz Strassmann.
Từ khi Hitler lên nắm chính quyền tại nước
Đức, dân Do Thái bị bạc đăi một cách tàn
nhẫn. Trong khi các người dân thiểu số này t́m
cách lẩn trốn dần khỏi cảnh áp bức
của đảng Quốc Xă th́ từ năm 1934, các nhà bác
học Do Thái trong đó có ông Albert Einstein cũng vắng
bóng tại các trường đại học Đức.
Tuy nhiên v́ là người Áo nên các luật lệ đối
xử kỳ thị với dân Do Thái đă không
được áp dụng cho bà Lise Meitner.Tới năm 1938,
khi quân đội Đức xâm lăng nước Áo và
đặt nước này dưới quyền kiểm soát
của họ th́ tới lượt người Áo cũng
bị ngược đăi. V́ thế các bạn của Lise
Meitner bèn t́m cách giúp bà trốn ra khỏi nước
Đức để tránh gặp phải cảnh khủng
bố của bọn người cuồng tín. Lise Meitner
tới Copenhagen, Đan Mạch. Tại đây, bà có một
người cháu là Otto Frisch làm việc cho pḥng nghiên cứu
của Niels Bohr.
(Theo vietsciences)
LISE MEITNER và SỰ PHÂN CHIA HẠT NHÂN
Vào năm 1907 Lise Meitner(1878-1968), người phụ nữ thứ hai nhận bằng tiến sĩ vật lí ở Vienna, đến Berlin để tham dự khoá học của Max Planck. Trong một cuộc tṛ chuyện bà gặp nhà hóa học Otto Hahn(1879-1968), người trở thành đồng nghiệp gần gũi nhất của bà trong hơn 30 năm. Hahn, đă từng học với Rutherford, có pḥng thí nghiệm ở Berlin. Meitner nhận được việc làm ở trường đại học sau một số khó khăn v́ bà là phụ nữ, với những qui định là bà không được phép đến pḥng thí nghiệm của sinh viên và chỉ giới hạn phạm vi làm việc trong pḥng thí nghiệm của Hahn, vốn là một xưởng mộc cải tạo lại.
Khám phá vào năm 1919 của Rutherford về phản ứng hạt nhân có thể xảy ra khi bắn phá một nguyên tố bằng hạt alpha đă dẫn đến nhiều thí nghiệm tương tự. Một thí nghiệm điển h́nh là bắn phá nguyên tố nào đó với hạt phóng xạ và xác định xem nguyên tố và hạt nào được tạo ra. Thường chỉ sau khi hàng ngàn phản ứng như vậy xảy ra, sản phẩm mới đủ để phân tích bằng phương pháp hóa học thông thường. Điều này đưa đến hóa học phóng xạ, trong đó các nguyên tố được nhận diện nhờ tính chất phóng xạ. Nhóm của Hahn và Meitner là một trong những người thực hành có kinh nghiệm nhất về hóa phóng xạ, và đă khám phá ra nguyên tố Protacti vào năm 1917.
Khám phá ra neutron của Chadwick vào năm 1932 đă cung cấp cho các nhà nghiên cứu một vũ khí mới để làm việc. Tại Rome, Enrico Fermi và đồng nghiệp đă quan tâm đặc biệt đến việc bắn phá hạt nhân bằng neutron. Trong hầu hết các thí ngiệm, nguyên tử số của sản phẩm không khác nhiều lắm so với hạt nhân ban đầu, nhưng đối với uranium, vấn đề lại khác.
Tại Berlin, Hahn và Meitner được hỗ trợ bởi Fritz Strassman(1902-1980) và cả ba thực hiện những thí nghiệm tương tự với thí nghiệm của Fermi. Lúc đầu họ đồng ư với Fermi là các nguyên tố siêu uran (nguyên tố có nguyên tử số lớn hơn 92, không có trong tự nhiên) đă được tạo thành. Tuy nhiên, vào năm 1938 họ bắt đầu thực hiện phân tích hóa học một cách cực kỳ chính xác các sản phẩm tạo thành khi bắn phá uran bằng neutron. Đúng vào thời gian này, phát xít Đức xâm chiếm nước Áo, và Meiner, một người Áo gốc Do thái, chạy sang Hà Lan rồi tới Thuỵ Điển, nhưng vẫn giữ liên lạc với công việc được tiếp tục bởi Hahn và Strassman.
Hahn kết luận trong một bức thư gởi cho Meitner rằng sản phẩm phân ră nhẹ hơn uran rât nhiều, và bao gồm bari, có nguyên tử số 56. Hahn viêt rằng là một nhà hóa học , ông chắc chắn đó là bari, nhưng là một nhà “hóa học hạt nhân” ông không thể tin được điều đó. Meitner mời người cháu của bà là Ottro Frisch, một nhà vật lư tại viện của Bohr ở Copenhagen, đến thăm bà tại thị trấn Kungaln trên bờ biển phía tây Thuy Điển. Dùng mẫu giọt hạt nhân của Bohr, Meitner và Hahn đă có thể giải thích được thí nghiệm của Hahn như là sự phân chia hạt nhân thành hai mảnh nhỏ hơn. Meitner tính toán rằng độ hụt khối sẽ cung cấp đủ năng lượng cho một phản ứng như vậy, và Frish tính toán rằng “sức căng bề mặt” của hạt nhân uran thật sự rất nhỏ. Khi họ viêt bài báo, họ gọi quá tŕnh phá vỡ này là “phân hạch” dựa theo quá tŕnh phân chia tế bào trong sinh vật (H́nh P.1402).
Khi quay về Copenhagen, Frish kể cho Bohr về công tŕnh của anh ta và Meitner. Ngay sau đó, Bohr công bố kết quả này một cách không chính thức tại một cuộc họp ở Mỹ, trước khi bài báo của Frisch và Meitner được xuất bản. Mối quan tâm đến sự phân hạch lớn đến nỗi hơn 100 bài báo được xuất bản trong ṿng một năm sau cuộc noí chuyện của Bohr. Năng lượng lớn giải phóng khi phân hạch thật là đáng kể nên chắc chắn sự phân hạch là nguồn năng lượng lớn. Cuối cùng điều này đă dẫn đến dự án Manhattan ở Mỹ, nhằm mục đích chế tạo bom phân hạch trong đó một phần được chỉ đạo bởi Fermi.
Otto Hahn đă đựơc nhận giải thưởng Nobel về hoá học năm 1944 nhờ thí nghiệm khám phá ra sự phân hạch. Lise Meitner và Otto Frisch được thừa nhận là những người đă giải thích được quá tŕnh phân hạch.
(Theo Vật Lí và thế giới quanh ta)