Trong một cuộc trốn t́m, Niu tơn đă đứng
trên 1 ô vuông có diện tích 1 mét. Khi người khác t́m ra ḿnh,
Niu tơn bảo ḿnh là Pascal!?
Chú thích: "Niu tơn trên 1 mét là Pat
can"
|
NHÀ BÁC HỌC ISAAC NEWTON
Newton sinh ngày 25 tháng 12 năm 1642 ở
làng Woolsthorpe, quận Lincol, nước Anh. Cha của Newton mất từ trước khi Newton
được sinh ra. Khi Ông được 3 tuổi, mẹ Ông tái giá và bà ngoại của Ông mang Ông
về dạy dỗ. Ông bắt đầu việc học ở thị trấn lân cận và khi Ông lên mười th́ được
gửi đến trường cấp hai ở gần Grantham. Trong thời gian đi học tại đây, Ông sống
ở nhà một người duợc sỹ tên là Clark, người đă có ảnh hưởng đến niềm đam mê làm
thí nghiệm hoá học trong suốt cuộc đời của Ông. Newton là một chàng trai trẻ rất
trầm lặng và khéo tay. Newton tạo ra đồng hồ mặt trời, mô h́nh cối xay gió, đồng
hồ nước, xe ngựa gỗ và thả diều với những cái đèn lồng gắn ở đuôi. Tuy nhiên Ông
đă không chú ư lắm đến việc học ở trường như sau này Ông kể lại.
Vào năm 1656, mẹ
của Ông trở về Woolsthorpe sau khi người chồng thứ hai của bà mất đi và bắt
Newton phải thôi học về làm ruộng. Tuy nhiên Newton thể hiện là không có tư năng
khiếu nào trong công việc đồng áng và theo một giai thoại th́ Newton được nh́n
thấy khi đang măi mê đọc sách trong một hàng rào trong khi đáng lư ra Ông phải
đang ở chợ. May mắn thay, người thầy cũ của Newton nhận thấy được tài năng của
Ông và đă thuyết phục mẹ Ông cho phép Ông theo học ở trường đại học Cambridge.
Vào tháng 6 năm 1661, Newton theo học ở trường Trinity ở Cambridge, ở đây Ông
nghiên cứu số học, h́nh học, lượng giác và sau này thiên văn học và quang học.
Ông đă nhận được rất nhiều ảnh hưởng từ nhà toán học và thần học xuất chúng
Isaac Barraw lúc bấy giờ là giáo sư toán học ở trường. Barraw nhận ra được thiên
bẩm của Newton và đă làm tất cả những ǵ có thể làm được để vun đắp tài năng ấy.
Newton giành được học vị cữ nhân vào tháng giêng năm 1665.
Khi Newton đang đi học ở trường đại học
th́ có bệnh dịch nên các trường phải ngừng giảng dạy, Newton trở về làng. Có
giai thoại kể lại rằng, một hôm Newton đang đọc sách dưới gốc cây táo, bỗng thấy
quả táo từ trên cây rơi xuống. Hiện tượng này đặt cho Ông nhiều điều nghi vấn.
Rồi từ đó Ông t́m ra định luật Vạn vật hấp dẫn. Tất nhiên Newton phải
trải qua một quá tŕnh nghiên cứu lâu dài mới t́m ra định luật đó chứ không phải
chỉ do một hiện tượng quả táo rụng. Khi ấy Newton mới 30 tuổi. Giai thoại này đă
được thi hào người Pháp Voltaire ghi lại lần đầu tiên khi ông trích dẫn lời
người cháu gái của Newton.
Đă hơn 300 năm
qua, môn cơ học của Newton đă và đang phát triển ngày càng rộng hơn. Các định
luật của Newton là một trong những định luật cơ bản trong vật lư học. Newton c̣n
có những đóng góp trong nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên khác như: thiên văn,
quang học và toán học.
VIỆC VIẾT CUỐN
PRINCIPIA(NHỮNG NGUYÊN LƯ)
Khi về già, Newton nói rằng những
năm đỉnh cao của ông là 1665 và 1666. Trong khi nạn dịch hạch tràn qua nước Anh,
Newton lui về trang trại ở nông thôn. Ở đó ông phát minh ra giải tích, hoàn
thành các công tŕnh trước đó về lư thuyết hấp dẫn, và khám phá ra ánh sáng
trắng là tập hợp của nhiều màu – tất cả chỉ trong ṿng 18 tháng!
Việc viết cuốn
Principia bắt nguồn từ một cuộc tranh luận trong vật lư. Cuộc tranh luận là về
bản chất của lực hấp dẫn và xảy ra vào tháng giêng năm 1684 giữa ba người:
Christopher Wren (1632-1732), ngày nay được nhớ như là một kiến trúc sư chuyên
về nhà thờ và các công tŕnh công cộng, đặc biệt là nhà thờ St. Paul ở London;
Robert Hooke, lúc bấy giờ là chủ tịch Hội hoàng gia; và Edmund Halley
(1656-1742), một nhà toán học và thiên văn trẻ. Chính Halley là người vào năm
1705 đă dự đoán sự quay lại của sao chổi đă xuất hiện năm 1682, và sao chổi này,
khi xuất hiện lại vào năm 1758, đă được đặt tên là sao chổi Halley.
Wren đưa ra một
giải thưởng cho một trong hai người kia nếu người đó có thể đưa ra bằng chứng
rằng lực giữa mặt trời và các hành tinh tuân theo định luật tỉ lệ nghịch với
b́nh phương khoảng cách. Hooke khẳng định ông đă làm được điều đó, nhưng không
thể đưa ra bằng chứng. V́ vậy Halley t́m kiếm sự giúp đỡ của Newton, lúc đó là
một giáo sư ở đại học Cambridge. Trong chuyến viếng thăm, Halley hỏi Newton quỹ
đạo của các hành tinh sẽ ra sao nếu lực hút bởi mặt trời tỉ lệ nghịch với b́nh
phương khoảng cách. Newton trả lời rằng các quỹ đạo đó sẽ là đường elip và nói
thêm rằng ông đă t́m ra chứng minh toán học cho điều này. Newton không t́m ra
bản thảo của chứng minh nhưng hứa sẽ tính toán lại và gởi cho Halley. Vào tháng
mười một, Halley nhận được bản thảo từ Newton, và nó kích động ông đến nỗi ông
đề nghị Newton công bố bằng cách gửi tới Hội hoàng gia. Newton làm điều đó dưới
dạng một tiểu luận, De Motu, dưạ trên một phần các tính toán trước đó. Trong
công tŕnh này, ông chứng tỏ rằng nếu
“một vật thể chuyển động theo h́nh elip th́ lực hướng tâm sẽ tỉ lệ nghịch với
b́nh phương khoảng cách”.
Đây là lời giải của vấn đề quỹ đạo các hành tinh, là câu trả lời thực sự đầu
tiên cho câu hỏi
“Lực hút của mặt trời với các hành tinh là cái ǵ?”
Sau khi gởi De
Motu tới Hội Hoàng gia, Halley, với sự hỗ trợ của hội, mời Newton viết một bản
đầy đủ hơn. Newton hoàn thành tác phẩm này trong ṿng 18 tháng, một thời gian
cực kỳ ngắn ngủi cho một tác phẩm vĩ đại như vậy. Ấn bản đầu tiên của Principia
xuất hiện vào ngày 5 tháng 7 năm 1687.
Newton viết
Principia cho một thiểu số có tŕnh độ cao về khoa học và toán học. Ông cố gắng
làm cho nó khó hiểu theo nhiều cách. Người ta nói rằng Newton đă khoe với một
người bạn là ông đă viết Principia
“thâm thuư” đến mức sao cho Ông sẽ không phải tranh luận
với bất cứ ai có học vấn kém hơn. Trái với
Galileo dùng ngôn ngữ thường ngày, Newton viết Principia bằng tiếng
Latinh, ngôn ngữ quốc tế của giới học thuật thời bấy giờ. Newton không bao giờ
cố gắng viết bản tiếng Anh, mặc dù ông sống thêm 40 năm nữa và đă tái bản cuốn
sách có sửa chữa vào năm 1717 và 1723. Bản dịch tiếng Anh đầu tiên và cũng là
duy nhất được xuất bản bởi Andrew Motte vào năm 1729. Hầu như người ta không
biết ǵ về Mote và lư do tại sao ông dịch Principia ra tiếng Anh.
Principia đă và vẫn là cuốn sách khó
hiểu, đến nỗi một sử gia đă nói
“không biết có cuốn sách nào tầm cỡ tương tự lại có ít độc giả như vậy”. Giống như hầu hết các công tŕnh khoa học chủ chốt của mọi thời,
cuốn sách này có những người ủng hộ mạnh mẽ cũng như những người chống đối kịch
liệt. Tuy nhiên, các khái niệm của Newton đă được thừa nhận như là phần tổng
quát của kiến thức khoa học v́ tính chính xác và hữu ích của chúng.
Ngày nay cơ học
Newton vẫn c̣n quan trọng. Ví dụ, được trang bị máy tính hiện đại, vật lư
Newton cho phép tính toán đường đi của các phi thuyền tới các hành tinh xa xôi.
Vào những năm 1979 và 1980, phi thuyền Voyager đă gởi về các bức ảnh đầy ấn
tượng về sao Thổ, sao Mộc, sao Thiên Vương và sao Hải Vương.
H́nh P.402 - Sao
Thổ
H́nh P.403 - Hệ mặt trời của chúng ta
(Theo Vật Lí
và thế giới quanh ta)
Xem thêm:
Newton vĩ đại hơn Einstein?
Newton
và Einstein, hai người khổng lồ cô đơn
Isaac Newton
Sir Isaac Newton
|
Isaac Newton 46 tuổi
Bức vẽ của Godfrey Kneller năm 1689
|
Sinh
|
4 tháng 1, 1643(1643-01-04) [OS:
25
tháng 12 1642]
Lincolnshire, Anh
|
Mất
|
31 tháng 3, 1727 (84 tuổi) [OS:
20 March 1727]
Kensington, London, Anh
|
Nơi ở
|
Anh
|
Quốc tịch
|
Anh
|
Ngành
|
Tôn giáo, Vật lư, Toán học, Thiên văn học,
Triết học tự nhiên, Nhà giả kim
|
Học trường
|
Trinity College, Cambridge
|
Người hướng
dẫn LATS
|
Isaac Barrow
|
Các sinh viên nổi tiếng
|
Roger Cotes
|
Nổi tiếng v́
|
Cơ học Newton
Vạn vật hấp dẫn
Vi phân
Quang học
|
Isaac Newton (phát âm như Isắc Niu-tơn) là
một nhà vật lư, nhà thiên văn
học, nhà triết học
tự nhiên và nhà toán học
vĩ đại người Anh.
Theo lịch Julius, ông sinh ngày 25 tháng
12 năm 1642 và mất
ngày 20 tháng 3 năm 1727; theo lịch
Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643
và mất ngày 31 tháng 3 năm 1727.
Luận thuyết của ông về Philosophiae
Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lư Toán học
của Triết lư về Tự nhiên) xuất bản năm
1687, đă mô tả về vạn
vật hấp dẫn và 3 định luật Newton,
được coi là nền tảng của cơ học
cổ điển, đă thống trị các quan niệm
về vật lư, khoa học trong suốt 3 thế kỷ
tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động
của các vật thể trên mặt đất và các
vật thể trong bầu trời bị chi phối
bởi các định luật tự nhiên giống nhau.
Trong cơ học, Newton đưa ra nguyên lư bảo toàn
động lượng (bảo toàn quán tính). Trong quang
học, ông khám phá ra sự tán sắc
ánh sáng, giải thích việc ánh sáng
trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu.
Trong toán học, Newton cùng với Gottfried Leibniz phát
triển phép tính vi phân và tích
phân. Ông cũng đưa ra nhị thức
Newton tổng quát.
Năm 2005, trong một cuộc thăm ḍ ư kiến
của Hội Hoàng gia về
nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử khoa học, Newton
vẫn là người được cho rằng có
nhiều ảnh hưởng hơn Albert Einstein.
Sự nghiệp
Isaac Newton sinh ra trong một gia đ́nh nông dân. May mắn
cho nhân loại, Newton không làm ruộng giỏi nên
được đưa đến Đại học
Cambridge để trở thành luật sư. Tại
Cambridge, Newton bị ấn tượng mạnh từ Euclid,
tuy rằng tư duy của ông cũng bị ảnh
hưởng bởi trường phái của Roger Bacon và René
Descartes. Một đợt dịch bệnh đă khiến
trường Cambridge đóng cửa và trong thời gian
ở nhà, Newton đă có những phát kiến khoa học quan
trọng, dù chúng không được công bố ngay.
Những người có ảnh hưởng đến
việc công bố các công tŕnh của Newton là Robert Hooke và Edmond Halley. Sau một cuộc tranh
luận về chủ đề quỹ đạo của
một hạt khi bay từ vũ
trụ vào Trái Đất với Hooke, Newton đă bị
cuốn hút vào việc sử dụng định
luật vạn vật hấp dẫn và cơ học của ông trong tính toán
quỹ đạo Johannes Kepler. Những kết quả này
hấp dẫn Halley và ông đă thuyết phục
được Newton xuất bản chúng. Từ tháng 8 năm 1684
đến mùa xuân năm 1688,
Newton hoàn thành tác phẩm, mà sau này trở thành một trong
những công tŕnh nền tảng quan trọng nhất cho vật lư của mọi thời
đại, cuốn Philosophiae Naturalis Principia Mathematica
(Các Nguyên lư Toán học của Triết lư về Tự
nhiên).
Trong quyển I của tác phẩm này, Newton giới
thiệu các định nghĩa và ba định
luật của chuyển động thường
được biết với tên gọi sau này là Định luật Newton. Quyển II
tŕnh bày các phương pháp luận
khoa học mới của Newton thay thế cho triết lư Descartes. Quyển cuối cùng là các
ứng dụng của lư thuyết động lực
học của ông, trong đó có sự giải thích về thủy
triều và lư thuyết về sự chuyển động
của Mặt Trăng. Để kiểm chứng lư
thuyết về vạn vật hấp dẫn của ông,
Newton đă hỏi nhà thiên văn
John Flamsteed kiểm tra xem Sao Thổ có chuyển động
chậm lại mỗi lần đi gần Sao Mộc không.
Flamsteed đă rất sửng sốt nhận ra hiệu
ứng này có thật và đo đạc phù hợp với
các tính toán của Newton. Các phương tŕnh của Newton
được củng cố thêm bằng kết quả
quan sát về h́nh dạng bẹt của Trái Đất
tại hai cực, thay v́ lồi ra tại hai cực như
đă tiên đoán bởi trường phái Descartes.
Phương tŕnh của Newton cũng miêu tả
được gần đúng chuyển động Mặt
Trăng, và tiên đoán chính xác thời điểm quay
lại của sao chổi Halley. Trong các tính toán về h́nh
dạng của một vật ít gây lực cản nhất
khi nằm trong ḍng chảy của chất lỏng hay
chất khí, Newton cũng đă viết ra và giải
được bài toán giải tích
biến phân đầu tiên của thế giới.
Newton sáng tạo ra một phương pháp khoa học
rất tổng quát. Ông tŕnh bày phương pháp luận
của ông thành bốn quy tắc của lư luận khoa
học. Các quy tắc này được phát biểu trong
quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica như sau:
- Các hiện
tượng tự nhiên phải được giải
thích bằng một hệ tối giản các quy
luật đúng, vừa đủ và chặt chẽ.
- Các hiện
tượng tự nhiên giống nhau phải có cùng nguyên
nhân như nhau.
- Các tính chất
của vật chất là như nhau trong toàn vũ
trụ.
- Một nhận
định rút ra từ quan sát tự nhiên chỉ
được coi là đúng cho đến khi có một
thực nghiệm khác mâu thuẫn với nó.
Bốn quy tắc súc tích và tổng quát cho nghiên cứu
khoa học này đă là một cuộc cách mạng về
tư duy thực sự vào thời điểm bấy
giờ. Thực hiện các quy tắc này, Newton đă h́nh
thành được các định luật tổng quát
của tự nhiên và giải thích được gần
như tất cả các bài toán khoa học vào thời
của ông. Newton c̣n đi xa hơn việc chỉ
đưa ra các quy tắc cho lư luận, ông đă miêu tả
cách áp dụng chúng trong việc giải quyết một bài
toán cụ thể. Phương pháp giải tích mà ông sáng tạo
vượt trội các phương pháp mang tính triết lư
hơn là tính chính xác khoa học của Aristoteles và Thomas Aquinas. Newton đă hoàn thiện
phương pháp thực nghiệm của Galileo Galilei,
tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn c̣n
được sử dụng cho đến ngày nay trong khoa
học. Những câu chữ sau đây trong quyển Opticks (Quang học) của ông có
thể dễ dàng bị nhầm lẫn với tŕnh bày
hiện đại của phương pháp nghiên cứu
thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay
cho "triết lư về tự nhiên":
Cũng như trong toán
học, trong triết lư về tự nhiên, việc nghiên
cứu các vấn đề hóc búa cần thực hiện
bằng phương pháp phân tích và tổng hợp. Nó bao
gồm làm thí nghiệm, quan sát, đưa ra những
kết luận tổng quát, từ đó suy diễn.
Phương pháp này sẽ giúp ta đi từ các hợp
chất phức tạp đến nguyên tố, đi
từ chuyển động đến các lực tạo ra
nó; và tổng quát là từ các hiện tượng
đến nguyên nhân, từ nguyên nhân riêng lẻ đến
nguyên nhân tổng quát, cho đến khi lư luận dừng
lại ở mức tổng quát nhất. Tổng hợp
lại các nguyên nhân chúng ta đă khám phá ra thành các nguyên lư,
chúng ta có thể sử dụng chúng để giải thích
các hiện tượng hệ quả.
Newton đă xây dựng lư thuyết cơ
học và quang học cổ điển và sáng
tạo ra giải tích nhiều năm trước Gottfried
Leibniz. Tuy nhiên ông đă không công bố công tŕnh về
giải tích trước Leibniz.
Điều này đă gây nên một cuộc tranh căi giữa
Anh và lục địa châu Âu suốt nhiều thập
kỷ về việc ai đă sáng tạo ra giải tích
trước. Newton đă phát hiện ra định lư
nhị thức đúng cho các tích của phân số, nhưng
ông đă để cho John Wallis
công bố. Newton đă t́m ra một công thức cho vận
tốc âm thanh, nhưng không phù hợp với kết
quả thí nghiệm của ông. Lư do cho sự sai lệch này
nằm ở sự giăn nở đoạn nhiệt, một
khái niệm chưa được biết đến
thời bấy giờ. Kết quả của Newton thấp
hơn γ½ lần thực tế, với γ
là tỷ lệ các nhiệt dung của không
khí.
Theo quyển Opticks, mà Newton đă chần chừ
trong việc xuất bản măi cho đến khi Hooke
mất, Newton đă quan sát thấy ánh sáng trắng bị
chia thành phổ nhiều màu sắc, khi đi qua lăng kính
(thuỷ tinh của lăng
kính có chiết suất thay đổi tùy màu). Quan
điểm hạt về ánh sáng của Newton đă xuất
phát từ các thí nghiệm mà ông đă làm với lăng kính
ở Cambridge. Ông thấy các ảnh sau lăng kính có h́nh
bầu dục chứ không tṛn như lư thuyết ánh sáng
thời bấy giờ tiên đoán. Ông cũng đă lần
đầu tiên quan sát thấy các ṿng giao thoa mà ngày nay
gọi là ṿng Newton, một
bằng chứng của tính chất sóng của ánh sáng mà
Newton đă không công nhận. Newton đă cho rằng ánh sáng
đi nhanh hơn trong thuỷ tinh, một kết luận
trái với lư thuyết sóng ánh sáng của Christiaan Huygens.
Newton cũng xây dựng một hệ thống hoá học trong mục 31 cuối
quyển Opticks. Đây cũng là lư thuyết hạt,
các "nguyên tố" được coi như các sự
sắp xếp khác nhau của những nguyên tử nhỏ
và cứng như các quả bi-a. Ông
giải thích phản ứng hoá học
dựa vào ái lực giữa
các thành phần tham gia phản ứng. Cuối đời (sau
1678) ông thực hiện
rất nhiều các thí nghiệm hoá
học vô cơ mà không ra kết quả ǵ.
Newton rất nhạy cảm với các phản bác
đối với các lư thuyết của ông, thậm chí
đến mức không xuất bản các công tŕnh cho
đến tận sau khi người hay phản bác ông nhất
là Hooke mất. Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica
phải chờ sự thuyết phục của Halley
mới ra đời. Ông tỏ ra ngày càng lập dị vào
cuối đời khi thực hiện các phản ứng
hoá học và cùng lúc xác định ngày tháng cho các sự
kiện trong Kinh Thánh. Sau khi Newton qua đời,
người ta t́m thấy một lượng lớn thuỷ ngân trong cơ thể của
ông, có thể bị nhiễm trong lúc làm thí nghiệm.
Điều này hoàn toàn có thể giải thích sự lập
dị của Newton.
Newton đă một ḿnh đóng góp cho khoa học nhiều
hơn bất cứ một nhân vật nào trong lịch
sử của loài người. Ông đă vượt trên
tất cả những bộ óc khoa học lớn của
thế giới cổ đại, tạo nên một miêu
tả cho vũ trụ không tự mâu thuẫn, đẹp
và phù hợp với trực giác hơn mọi lư thuyết
có trước. Newton đưa ra cụ thể các nguyên lư của
phương pháp khoa học có thể ứng dụng
tổng quát vào mọi lĩnh vực của khoa học.
Đây là điều tương phản lớn so với
các phương pháp riêng biệt cho mỗi lĩnh vực
của Aristoteles và Aquinas trước đó.
Tuy các phương pháp của Newton rất lôgic, ông vẫn tin vào sự tồn
tại của Chúa. Ông tin là sự đẹp đẽ hoàn
hảo theo trật tự của tự nhiên phải là
sản phẩm của một Đấng
Tạo hoá siêu nhân. Ông cho rằng Chúa tồn tại
mọi nơi và mọi lúc. Theo ông, Chúa sẽ thỉnh
thoảng nhúng tay vào sự vận hồi của thế
gian để giữ ǵn trật tự.
Cũng có các nhà triết học trước như Galileo
và John Philoponus sử dụng
phương pháp thực nghiệm, nhưng Newton là
người đầu tiên định nghĩa cụ
thể và hệ thống cách sử dụng phương
pháp này. Phương pháp của ông cân bằng giữa lư
thuyết và thực nghiệm, giữa toán học và cơ học. Ông toán học hoá
mọi khoa học về tự nhiên, đơn giản hoá
chúng thành các bước chặt chẽ, tổng quát và
hợp lư, tạo nên sự bắt đầu của Kỷ
nguyên Suy luận. Những nguyên lư mà Newton đưa ra do
đó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến thời
đại ngày nay. Sau khi ông ra đi, những phương
pháp của ông đă mang lại những thành tựu khoa
học lớn gấp bội những ǵ mà ông có thể
tưởng tượng lúc sinh thời. Các thành quả này
là nền tảng cho nền công nghệ mà chúng ta
được hưởng ngày nay.
Không ngoa dụ chút nào khi nói rằng Newton là danh nhân quan
trọng nhất đóng góp cho sự phát triển của
khoa học hiện đại. Như nhà thơ Alexander Pope đă viết:
Nature and Nature's laws lay
hid in night
God said, Let Newton be!
and all was light
|
Tự nhiên im ĺm trong
bóng tối
Chúa bảo rằng
Newton ra đời!
Và ánh sáng bừng lên
khắp lối
|
Tiểu
sử
Quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica
của Newton
Isaac Newton sinh ra tại một ngôi nhà ở Woolsthorpe, gần Grantham ở Lincolnshire, Anh, vào ngày 25 tháng 12 năm 1642 (4 tháng 1, 1643 theo lịch mới).
Ông chưa một lần nh́n thấy mặt cha, do cha ông,
một nông dân cũng tên là Isaac Newton, mất trước
khi ông sinh ra không lâu. Sống không hạnh phúc với bố
dượng từ nhỏ, Newton bắt đầu
những năm học phổ thông trầm uất, xa nhà và
bị gián đoạn bởi các biến cố gia đ́nh.
May mắn là do không có khả năng điều hành tài chính
trong vai anh cả sau khi bố dượng mất, ông
tiếp tục được cho học đại
học (trường Trinity College Cambridge) sau phổ thông vào
năm 1661, sử dụng
học bổng của trường với điều
kiện phải phục dịch các học sinh đóng
học phí.
Mục tiêu ban đầu của Newton tại Đại
học Cambridge là tấm bằng luật sư với
chương tŕnh nặng về triết học của
Aristotle, nhưng ông nhanh chóng bị cuốn hút bởi toán
học của Descartes, thiên văn học của Galileo và
cả quang học của Kepler. Ông đă viết trong
thời gian này: "Plato là bạn của tôi, Aristotle là
bạn của tôi, nhưng sự thật mới là
người bạn thân thiết nhất của tôi". Tuy
nhiên, đa phần kiến thức toán học cao cấp
nhất thời bấy giờ, Newton tiếp cận
được là nhờ đọc thêm sách, đặc
biệt là từ sau năm 1663, gồm các cuốn Elements
của Euclid, Clavis Mathematica của William Oughtred, La Géométrie của
Descartes, Geometria a Renato Des Cartes của Frans van Schooten, Algebra của
Wallis và các công tŕnh của François Viète.
Ngay sau khi nhận bằng tốt nghiệp, năm 1665, ông phải trở về nhà 2
năm v́ trường đóng cửa do bệnh dịch
hạch lan truyền. Hai năm này chứng kiến một
loạt các phát triển quan trọng của Newton với
phương pháp tính vi phân và tích
phân hoàn toàn mới, thống nhất và đơn giản
hoá nhiều phương pháp tính khác nhau thời bấy
giờ để giải quyết những bài toán có vẻ
không liên quan trực tiếp đến nhau như t́m
diện tích, t́m tiếp tuyến, độ dài
đường cong và cực trị của hàm. Tài năng
toán học của ông nhanh chóng được hiệu
trưởng của Cambridge nhận ra khi trường
mở cửa trở lại. Ông được nhận làm
giảng viên của trường năm 1670, sau khi hoàn thành thạc sĩ, và
bắt đầu nghiên cứu và giảng về quang
học. Ông lần đầu chứng minh ánh sáng trắng
thực ra được tạo thành bởi nhiều màu
sắc, và đưa ra cải tiến cho kính thiên văn
sử dụng gương thay thấu kính để
hạn chế sự nhoè ảnh do tán sắc ánh sáng qua
thuỷ tinh.
Newton được bầu vào Hội
Khoa học Hoàng gia Anh năm 1672
và bắt đầu vấp phải các phản bác từ
Huygens và Hooke về lư thuyết hạt ánh sáng của ông. Lư
thuyết về màu sắc ánh sáng của ông cũng bị
một tác giả phản bác và cuộc tranh căi đă
dẫn đến suy sụp tinh thần cho Newton vào năm 1678. Năm 1679
Newton và Hooke tham gia vào một cuộc tranh luận mới
về quỹ đạo của thiên thể trong trọng
trường. Năm 1684, Halley
thuyết phục được Newton xuất bản các
tính toán sau cuộc tranh luận này trong quyển Philosophiae
Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lư của Triết lư
về Tự Nhiên). Quyển sách đă mang lại cho Newton
tiếng tăm vượt ra ngoài nước Anh,
đến châu Âu.
Năm 1685, chính trị
nước Anh thay đổi dưới sự trị v́
của James II, và trường
Cambridge phải tuân thủ những điều luật phi
lư như buộc phải cấp bằng cho giáo chủ không
thông qua thi cử. Newton kịch liệt phản đối
những can thiệp này và sau khi James bị William III đánh
bại, Newton được bầu vào Nghị viện Anh nhờ những đấu
tranh chính trị của ông.
Năm 1693, sau
nhiều năm làm thí nghiệm hoá học thất bại và
sức khoẻ suy sụp nghiêm trọng, Newton từ bỏ
khoa học, rời Cambridge để về nhận
chức trong chính quyền tại Luân Đôn. Newton tích
cực tham gia hoạt động chính trị và trở nên
giàu có nhờ bổng lộc nhà nước. Năm 1703 Newton được bầu làm
chủ tịch Hội Khoa học Hoàng
gia Anh và giữ chức vụ đó trong suốt
phần c̣n lại của cuộc đời ông. Ông
được Nữ hoàng phong bá
tước năm 1705.
việc ai phát minh ra vi phân và tích phân, Newton và Lepnic không bao
giờ tranh luận cả, nhưng các người hâm
mộ lại tranh căi quyết liệt khiến hai nhà khoa
học vĩ đại này cảm thấy xấu hổ.
Ông mất ngày 31 tháng 3 năm 1727
tại Luân Đôn.
Nghiên cứu khoa học
Quang học
Quyển Opticks của Newton
Từ năm 1670 đến
1672, Newton diễn thuyết
về quang học. Trong khoảng thời gian này ông khám phá
ra sự tán sắc ánh sáng,
giải thích việc ánh sáng trắng
qua lăng kính trở thành nhiều màu, và một thấu
kính hay một lăng kính sẽ hội
tụ các dăy màu thành ánh sáng trắng.
Newton c̣n cho thấy rằng ánh sáng màu không thay đổi
tính chất, bằng việc phân tích các tia màu và chiếu vào
các vật khác nhau. Newton chú ư rằng dù là ǵ đi nữa, phản
xạ, tán xạ hay truyền qua,
màu sắc vẫn giữ nguyên. V́ thế màu mà ta quan sát là
kết quả vật tương tác với các ánh sáng
đă có sẵn màu sắc, không phải là kết quả
của vật tạo ra màu.
(Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia)
Isaac Newton -
[21/02/2006 - Vatlysupham]
Isaac
Newton (1642 - 1727) - nhà vật lư, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là
"người sáng lập ra vật lư học cổ điển"
Niutơn xuất
thân gia đ́nh quư tộc nông thôn. Cha của Niutơn mất trước khi ông ra đời. Lúc
mới sinh Niutơn ốm yếu, quặt quẹo. Bà mẹ quan tâm chăm sóc sức khỏe cho Niutơn
nhiều hơn đường học vấn. Năm 12 tuổi, bà mới cho con trai đi học. V́ sức yếu,
cậu thường bị các bạn bắt nạt. Cậu bèn nghỉ ra cách trả thù thú vị, là quyết tâm
học thật giỏi để đứng đầu lớp. Năm 17 tuổi, Niutơn vào học ở trường Đại học tổng
hợp Kembritgiơ. Thời gian c̣n là sinh viên, Niutơn đă t́m ra nhị thức trong toán
học giải tích, được gọi là "nhị thức
Niutơn". Năm 19 tuổi bắt đầu vào Đại học Cambirdge, bắt đầu
nghiên cứu rộng răi khoa học tự nhiên.
Năm 27 tuổi, ông
được cử làm giáo sư toán ở trường Đại học nơi ông học; năm 30 tuổi, ông được bầu
làm hội viên Hội khoa học hoàng gia Anh (Viện hàn lâm) và 23 năm cuối đời, ông
làm chủ tịch Hội khoa học hoàng gia Anh. Ông c̣n là hội viên danh dự của nhiều
Hội khoa học và viện sĩ của nhiều Viện hàn lâm.
Thành tựu khoa
học của ông trên nhiều lĩnh vực, tích vi phân ông sáng lập là một cột mốc trong
lịch sử toán học; giải thích về các loại màu sắc củavật thể đă mở đường sáng lập
khoa học quang phổ. Cống hiến lớn khiến tên tuổi ông trở thành bất tử là Ba định
luật về chuyển động đặt cơ sở lư luận cho lực học kinh điển, quan trọng nhất là
"Nguyên lư vạn vật hấp dẫn".
Đây là nguyên lư cơ sở cho những phát minh vật lư học, cơ học, thiên văn học
trong nhiều thế kỷ. Một lần, Newton trông thấy quả táo rụng từ trên cây xuống,
ông liền nghĩ đến những nguyên nhân về sự rơi của các vật và t́m ra sức hút của
quả đất.
Những
phát kiến về thiên văn học của Niutơn dựa vào định luật vạn vật hấp dẫn đă giáng
đ̣n chí mạng vào uy tín của giáo hội. Bọn bảo vệ tôn giáo đă phản ứng lại một
cách quyết liệt đầy căm phẫn trước những phát minh về thiên văn học của Niutơn.
Do ảnh hưởng của giáo hội, nhiều trường đại học ở châu Âu đến tận thế kỷ XIX vẫn
cấm dạy môn cơ học, những vấn đề có liên quan đến định luật vạn vật hấp dẫn của
Newton.
Niutơn sống cuộc
đời độc thân và hết sức đăng trí. Tính đăng trí của ông đă trở thành những giai
đoạn như chuyện mời cơm khách, chuyện luộc đồng hồ, chuyện đục hai lỗ cho chó và
mèo ... Newton mất năm 84 tuổi. Ông được mai táng ở Đài kỷ niệm quốc gia Anh
trong tu viện Oetminxtơ - nơi an nghỉ của các vua chúa và các bậc vĩ nhân của
nước Anh.
Đứa trẻ khéo
tay.
Lúc nhỏ Newton là
đứa trẻ ít nói nhưng ông rất thích thủ công nghệ, thường xuyên tự thiết kế và
làm ra các đồ chơi tinh xảo. Mọi người đều rất thích chúng, đặc biệt là diều của
ông làm, nó vừa đẹp vừa bao nhanh và bay cao.
Vào một chiều nọ
ông buộc một chiếc đèn lồng xinh xẻo vào chiếu diều của ḿnh và thả lên trời,
trông giống như một ngôi sao trên trời. Mọi người trong thôn đều chạy ra xem cho
rằng xuất hiện sao chổi. Khi biết đó là diều của Newton thả th́ mọi người đều
tấm tắc khen. Những thứ Newton làm ra đều rất lạ và cũng rất đẹp. Ông tự tay
làm chiếc chong chóng đặt ở đầu nhà, khi ông đi xem chiếc chong chóng lắp ở thôn
bên, về nhà ông mô phỏng làm một chiếc như vậy. Để cho nó quay cả được khi không
có gió, ông đặt trong lồng của cánh quạt một con chuột, khi con chuột động đậy
là chong chóng quay liên tục.
Học
xong tiểu học, Newton c̣n làm ra chiếc
"đồng hồ nước". Ông dùng một
chiếc thùng đựng nước nhỏ, dưới đáy có một lỗ nhỏ có nút, tháo nút ra nước sẽ
nhỏ giọt xuống. Mặt nước trong thùng dần dần hạ thấp, chiếc phao trong thùng hạ
thấp theo. Chiếc phao đồng thời kéo theo chiếc kim chỉ di động tư một trên mặt
chiếc mâm có khắc vạch, một vạch khắc chỉ một đơn vị thời gian. trong pḥng của
ḿnh Newton lắp một chiếc đồng hồ nước, ông cũng lắp cho hàng xóm một chiếc như
vậy.
Thú vị hơn là
Newton c̣n lắp cho bà con trong thôn một chiếc
"đồng hồ mặt trời". Lúc hơn
mười tuổi Newton quan sát thấy buổi sáng đi học bóng của ḿnh bên trái, chiều
tan học về bóng lại nằm sang phía bên kia. Mấy ngày liền đều như vậy, ông cảm
thấy mặt trời chuyển động có quy luật. Như vậy chẳng phải có thể lợi dụng quy
luật này làm một chiếc "Đồng hồ mặt trời" chính xác hơn sao. Thế là ông bắt đầu
làm thí nghiệm, hàng ngày ông "đuổi theo" bóng nắng khắp nơi, ghi lại thay đổi
vị trí từng nửa giờ, một giờ. Cuối cùng ông cũng làm xong chiếc đồng hồ bóng
nắng tṛn. Nó là một dụng cụ đo thời gian dựa vào bóng nắng mặt trời. Xung quanh
mâm tṛn của đồng hộ mặt trời ông khắp các vạch dấu đều đặn, lợi dụng sự xê dịch
của bóng nắng mặt rời có thể biết được chính xác thời gian. Sau khi làm được
đồng họ mặt trời Newton đặt nó ở giữa làng để nó báo giờ cho mọi người. Mọi
người trong thôn gọi là "Đồng hồ
Newton", nó c̣n được sử dụng khá lâu sau khi ông mất. Mỗi lần
nh́n thấy "Đồng hồ Newton" là mọi người lại nhớ đến cậu bé khéo tay thông minh
của ngày ấy.
Newton đăng
trí
Newton đối với khoa học th́
chuyên cần nhưng trong sinh hoạt lại là người vô tâm, hay quên, ông thường làm
việc quên cả ăn.
Có
một lần Newton mời bạn đến nhà ăn cơm.
Bạn đến cơm canh đă bày ra, nhưng Newton vẫn miệt mài trong
pḥng thí nghiệm, bạn ông không quấy rầy ông, đợi lâu mà vẫn chưa thấy ông ra,
liền tự động ăn một chú gà quay trước, bỏ xương trong mâm rồi ngồi vào ghế thiu
thiu ngủ. Măi sau Newton bước ra, mồ hôi nhễ nhại, gọi bạn dậy và xin bạn lượng
thứ; rồi đi tới bà ăn chuẩn bị ăn. Khi nh́n thấy xương để trong mâm và bát đă
dùng, ông ṿ đầu cười nói:
- "Ôi th́ ra ḿnh đă ăn
rồi, tôi vẫn cứ tưởng là ḿnh chưa ăn!"
Đứng bên cạnh,
thấy vậy bạn ông đă cười vang.
Có một lần
Newton xuống bếp tự làm bữa sáng,
ông đun một nồi nước chuẩn bị luộc trứng. Nước vẫn chưa sôi, xem ra Newton có
phần sốt ruột, rồi bắt đầu nghĩ đến một vấn đề khoa học, quá tŕnh tập trung ông
quên luôn chuyện đang đun nước. Lúc này nước đă sôi sùng sục, nước bốc hơi mù
mịt, thuận tay ông thả luôn vật để bên cạnh vào nồi. Nửa tiếng sau ông mới bừng
tỉnh, nhớ việc đang làm trong bếp: "Trứng
gà chắc đă chín rồi". Ông mở vung nồi th́ thấy trong nồi không phải
là trứng mà là chiếc đồng hộ đeo tay của ông.
Một buổi chiều
đẹp trời, Newton định cưỡi ngựa vào
rừng có việc, ông lấy yên ngựa và đi dắt ngựa. Vừa dắt ngựa bỗng
nghĩ đến một vấn đề khoa học. Dây ngựa trong tay, ông buông ra lúc nào cũng
không hay, cứ thế vác yên ngựa vừa đi vừa nghĩ. Lúc th́ cúi đầu im lặng, lúc th́
giơ tay vẽ vẽ vào không trung, cứ như người lẩn thẩn vậy. Khi ông đi đến đỉnh
núi th́ bỗng cảm thấy mệt quá và muốn cưỡi ngựa, nhưng lúc này ngựa không biết
đă chạy đi chốn nào rồi.
Một ngày mùa nọ,
Newton ngồi gần ḷ sưởi
suy nghĩ vấn đề ǵ đó. V́ quá tập trung, nóng quá cũng không biết nữa, tay áo
bên phải của ông đă có mùi khét, bốc khói đen, mùi nồng nặc mà ông vẫn không
phát hiện ra có chuyện ǵ xảy ra. Người nhà chạy vào sợ quá hét toáng lên, lúc
đó Newton mới biết tay áo ḿnh bị cháy.
Tại sao Newton
lại đăng trí thế? V́ ông quá say sưa với khoa học, tất cả dành cho công việc,
quên hết mọi việc quanh ḿnh. Không có tinh thần nghiên cứu khoa học say sưa như
vậy th́ làm sao có thể trở thành nhà khoa học lớn được?
Chuyện về quả
táo chín
Đây
là câu chuyện thú vị và đầy ư nghĩa về nhà khoa học vĩ đại Newton.
Vào một ngày mùa
thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo
từ cây rơi xuống "bịch"
một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nh́n quả táo chín lăn xuống vũng bùn.
Quả táo đă cho ông một gợi ư làm ông nghĩ miên man.
Quả táo chín rồi, tại sao
lại rơi xuống đất? Tài v́ gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh
mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời? Như vậy trái đất có cái
ǵ hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, ḥn đă ném đi rốt cuộc lại
rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất
không?
Sau này Newton
nêu ra: Mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu
sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; Trái
đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái
đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau, v́
có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay
quanh mặt trời.
Chuyện quả táo rơi xuống
đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo,
đương nhiên quả táo cũng có lực hút của quả đất, nhưng lực hút của trái đất đối
với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo
khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống
mặt đất? V́ mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không
đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối
với mặt trời th́ trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.
Vào buổi tối khi
nh́n lên bầu trời thấy vô vàn những v́ sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực
hút lẫn nhau. Đây chính là định luật
"Vạn vật hấp dẫn" nổi tiếng của Newton.
10 sự thật chưa kể về Issac Newton
Posted by
Tô Lâm Viễn Khoa
on 30 October, 2008
Không phủ nhận Issac Newton là nhà khoa học đại
tài, người đặt nền móng cho ngành cơ học, quang học và
vật lư cổ điển. Tuy nhiên có những bí mật về ông mà
không phải ai cũng biết: suưt trở thành nông dân, là nhà
giả kim bí mật, cuồng tín Kinh Thánh, và c̣n nhiều hơn
thế nữa…
1. Bé Newton suưt chết yểu
Năm 1642, đúng vào năm nhà vật lư Galileo Galilei qua
đời, bé Isaac Newton chào đời sớm hơn dự kiến đúng vào
ngày Giáng Sinh. Được đặt theo tên cha, người đă mất
cách đó hơn 3 tháng, Isaac ốm yếu và bé nhỏ đến mức có
thể đặt vừa vào trong cái b́nh 1,5 lít - theo lời thân
mẫu ông kể lại.
2. Newton suưt làm nông dân
Sinh ra trong 1 gia đ́nh làm nghề nông, năm 17 tuổi
Newton sém chút nữa th́ nghe lời mẹ, bỏ học để chăm nom
trang trại gia đ́nh. May mắn làm sao, cậu chàng này
không có bàn tay chăn nuôi trồng trọt. Chẳng lâu sau đó,
ông chú Newton đă thuyết phục được mẹ cậu cho con trai
đến học trường Trinity ở Cambridge.
3. Sự thật về Newton và quả táo
Theo câu chuyện nổi tiếng do nhà văn Pháp Voltaire kể
lại: một lần đi dạo trong vườn nhà ở dinh thự
Woolsthorpe, Newton bị một quả táo rơi trúng đầu và từ
đó nảy ra thuyết “Vạn vật hấp dẫn”. Kỳ thực lúc đó,
Newton đang ngồi trong nhà nh́n ra ngoài cửa sổ th́ nh́n
thấy táo rơi.
4. Newton “giấu” các công tŕnh nghiên cứu
Newton sớm bộc lộ tài năng xuất chúng từ khi c̣n rất
trẻ, tuy nhiên trong khoảng thời gian từ năm 21 đến năm
27 tuổi, ông gần như không tiết lộ bất cứ công tŕnh
nghiên cứu nào của ḿnh.
Điều này dẫn đến nhiều rắc rối xung quanh việc chứng
thực tác giả sau này. Ví dụ như khi nhà toán học
Gottfried Leibniz công bố công tŕnh nghiên cứu về số vi
phân và tích phân, Newton bèn lên tiếng phản đối rằng:
chính ông mới là người phát minh ra nó cách đây rất
nhiều năm nhưng không xuất bản. Sự kiện này trở thành
một trong những tranh căi rùm beng nhất trong lịch sử
toán học: ai mới là tác giả thực sự của phép toán vi
phân?
5. Newton sùng đạo…
Rất nhiều người đă sử dụng Định luật Chuyển động và Định
luật vạn vật hấp dẫn để bác bỏ sự tồn tại của Chúa trời.
Tuy nhiên, chính bản thân tác giả lại viết:
“Lực hút Trái đất chỉ giải thích sự chuyển động của các
hành tinh nhưng không thể làm rơ ai, khi nào và bằng
cách nào đă đưa các hành tinh vào vị trí chuyển động như
vậy. Chính Chúa trời là người điều khiển và sắp đặt vạn
vật. Người là bất diệt, là vĩnh cửu…”.
6. … nhưng lại hờ hững với Quỷ Satan
Dù mang niềm tin mănh liệt với tôn giáo nhưng Newton lại
phản đối kịch liệt những thuyết giáo liên quan đến ma
quỷ, linh hồn. Điều này có vẻ đi ngược với xu hướng
chung của thời đại: vào thế kỷ 17, phần lớn các học giả
và giới trí thức châu Âu đều tin Santan là có thật, họ
coi sự bất kính của Newton là một hành động báng bổ.
7. Newton bị ám ảnh bởi Kinh Thánh
Kinh Thánh là đam mê lớn nhất trong cuộc đời Newton,
thậm chí c̣n lớn hơn cả các ngành khoa học và nghiên
cứu. Trên thực tế, ông đă tính ra ngày hành h́nh Chúa
Jesu chính xác là vào mùng 3 tháng 4 năm 33 sau Công
nguyên, và ngày sớm nhất nhân loại cận kề nguy cơ diệt
vong là năm 2060 sau Công nguyên.
“Sấm truyền” này có thể đúng, có thể sai, tuy nhiên ít
nhất một tiên đoán của ông đă trở thành sự thật: người
Do Thái đă trở về mảnh đất Israel.
8. Newton từng là nhà giả kim
Các nghiên cứu về thuật giả kim (biến kim loại thành
vàng) của Newton được ông giấu kín suốt cuộc đời, bởi
theo đạo luật năm 1404 ở Anh, việc sản xuất vàng và bạc
trái phép bị có thể bị khép vào trọng tội.
9. Nhà chức trách chống hàng giả
Năm 1696, Newton đảm nhận vị trí giám sát trong Bộ Ngân
khố Anh và được giao trách nhiệm bài trừ hàng giả.
Có vẻ như nhà khoa học rất hăng say với công việc này:
đích thân ông cải trang và lê la tới khắp các quán bar
để truy t́m bằng chứng. Kết quả, ông đă khiến 10 tên làm
bạc giả khét tiếng phải cúi đầu nhận tội.
10. Newton - chính trị gia kiệm lời
Năm 1689, Newton được bổ nhiệm vào nghị viện Anh và thực
hiện bổn phận đó đúng một năm tṛn. Suốt thời gian này,
người ta thấy ông nói đúng 1 câu duy nhất: (với người
phục vụ trong quốc hội) “Làm ơn đóng cái cửa sổ lộng gió
kia hộ tôi”.
Thùy Vân
Theo Neatorama
Ixăc
Niutơn, nhà vật lí, toán học và thiên văn Anh, nhà
bác học đă phát hiện định luật lớn
nhất của Vũ Trụ, sinh năm 1642 trong một gia
đ́nh nông dân giản dị. Lúc nhỏ ông hay ốm
đau và gầy so với tuổi nhưng ông đă có
một đời sống khá thọ, không bao giờ
đau ốm. Ở trường, ông là một học
sinh như các học sinh khác, không tỏ ra có điều
ǵ nổi bật. Nhưng trong việc chế tạo
đồ chơi cơ khí ông có tài khéo léo đặc
biệt: Một cối xay có con chuột thay người
điều khiển, một chiếc diều bay có
lồng đèn để ban đêm làm cho những người
trong vùng hoảng sợ.
Năm 18 tuổi, 1661, ông vào đại
học tổng hợp Cambơrit (Cambridge). Tại đây
thiên tài của ông cũng chưa biểu hiện rỏ
rệt. Ví dụ, năm 1663, trong một cuộc thi
tuyển, ông chỉ được xếp hạng 24 trên
140 sinh viên. Lúc bấy giờ trường đại
học phải đóng cửa v́ bệnh dịch và Niutơn
trở về quê, sống ở đây suốt ba năm
liền (1664-1667).
Chính tại nơi đây, trong cái yên
lặng của thiên nhiên ở xung quanh làng quê, ông đă
có những phát thảo đầu tiên về những khám
phá cơ bản tương lai trong ba lĩnh vực
gắn liền với tên tuổi của ông: tính vi tích,
thuyết vạn vật hấp dẫn và bản chất
ánh sáng trắng.
Phép tính vi tích nghiên cứu những đại
lượng vô cùng nhỏ. Chính Niutơn là người
đă đặt những cơ sở cho ngành toán
học này.
Trong khi suy nghĩ về những điều
mà những người đi trước ông, Kêplê và
Galilê đă phỏng đoán về sức hút của
vạn vật, Niutơn nêu giả định rằng các
thiên thể nhất định có tác động lẫn
nhau bằng sức hút.
Sau nhiều tính toán và suy nghĩ, đến
năm 1667, ông tŕnh bày phát họa đầu tiên về
định luật vạn vật hấp dẫn.
Người ta kể lại rằng một
hôm Niutơn ngồi ở góc cây táo, nh́n mặt trời
lặn. trăng đă tỏa sáng và các v́ sao đă
thắp sáng trên bầu trời. Bổng nhiên một
quả táo rơi. Nhà bác học trẻ, 24 tuổi mà
đầu óc lúc nào cũng bận rộn suy nghĩ
về vấn đề sức hút của vạn vật,
bất ngờ nêu lên câu hỏi: tại sao quả táo rơi
và mặt trăng không rơi, trong khi cả hai đều
chịu sức hút? bổng ông lóe lên một tia sáng:
“A! Mặt trăng rơi. nếu nó không rơi, nó
sẻ xa dần trái đất.”
Nhưng ông cần đến hơn 16 năm
suy nghĩ và chứng minh để công bố định
luật vạn vật hấp dẫn vào năm 1685,
một trong những khám phá lớn nhất đă bắt
nguồn từ một bộ óc của con người:
Hai vật hút nhau theo một lực tỉ lệ thuận
với khối lượng của chúng và tỉ lệ
nghịch với b́nh phương khoảng cách giữa các
trọng tâm của chúng.
Định luật này giúp ông tính
được khối lượng mặt trời,
khối lượng của trái đất và của các
hành tinh, giải thích tại sao trái đất lại
dẹt ở hai cực, nguyên nhân của hiện tượng
thủy triều là kết quả sức hút tổng
hợp của mặt trời và mặt trăng, tính không
điều ḥa của chuyển động mặt trăng
v.v… Năm 1687 ông công bố những khám phá của ḿnh
trong tác phẩm chính những nguyên lí toán học
của triết học tự nhiên , công thức hóa
ba nguyên lí làm cơ sở của cơ học hiện
đại.
Bạn c̣n nhớ ba định luật
của Niutơn được học ở trường:
1. Mọi vật đứng yên hay tiếp
tục chuyển động theo đường thẳng
với một vận tốc không đổi, nếu nó
không chịu tác dụng của một lực bên ngoài.
2. Sự thay đổi chuyển động
của một vật tỉ lệ thuận với
lực bên ngoài, tỉ lệ nghịch với khối lượng
vật và theo phương của lực. Công thức
của nó có dạng sau: F= ma
3. Với tất cả lực tác dụng
đều có phản lực tương đương
nhưng theo chiều ngược lại.
Định luật này ở mức độ
nào đó nói lên biểu hiện đầu tiên của
định luật phản lực được Xiôncôpxki
công thức hóa đầu tiên thế kỉ XX.
Niutơn đă phân tích ánh sáng trắng thành
bảy màu quang phổ. Một bài toán mới bắt
đầu giày ṿ trí tuệ nhà bác học: cắt nghĩa
bản chất ánh sáng. Những công tŕnh của ông
về ánh sáng đă mở ra một kỉ nguyên.
Những nhà viết tiểu sử của
Niutơn đă mô tả ông trong khi gần 50 tuổi là
một người tầm vóc trung b́nh, mắt sáng, mái tóc
hoa râm, luôn luôn khỏe mạnh. Ông nói ít và lúc nào cũng
suy nghĩ về một bài toán nào đó.
Năm 1688, Niutơn được bầu vào
Quốc Hội. Ông không ḥa vào các cuộc tranh luận
chính trị và các tay tài tử khôi hài cho rằng trong
suốt các buổi họp Niutơn chỉ nói mỗi
một câu: “xin đóng dùm cửa sổ, ở đây có
luồng gió lùa khác thường”. Năm 1703, ông là
chủ tịch hội hoàng gia và ông ở chức vị
tôn vinh này đến khi qua đời.
Nhà bác học vĩ đại này không bao
giờ ốm đau, đă mất đi bất ngờ v́
bệnh gan năm 1727.
Một đài kỉ niệm đă dựng
lên ở ngôi mộ của Niutơn năm 1731, trên bia
kết thúc bằng ḍng chữ: “Những người
đă khuất hăy hạnh phúc v́ đă có một sự
làm đẹp như thế cho nhân loại”.
(Nguồn: Internet)