Albert Einstein (1879–1955) là
người Đức gốc Do Thái. Ông là nhà vật
lư lư thuyết tương đối. Năm 1921, ông
được trao giải thưởng Nobel về vật
lư học. Khi Đức Quốc xă lên cầm quyền, ông
di cư sang Mỹ (năm 1933); từ đó, ông giảng
dạy và nghiên cứu khoa học tại Đại học
Thuyết tương đối của Einstein với
công thức nổi tiếng E = mc2 là nền
tảng của sự phát triển năng lượng
nguyên tử, là một trong những cơ sở khoa học
của các lư thuyết hiện đại về vũ
trụ. Ngoài ra, theo đánh giá của các nhà khoa học, các
công tŕnh nghiên cứu của ông c̣n góp phần không nhỏ
vào việc khám phá những bí mật của ADN, vào cuộc
cách mạng của công nghệ máy tính hiện đại,
vào việc thúc đẩy tất cả các lư thuyết
vật lư hiện đại cùng phát triển theo
hướng hợp nhất giữa thế giới vi mô và
thế giới vĩ mô.
Ngày
Thông qua các tài liệu được công bố trong cuộc
triển lăm và trên mạng Internet, gồm các sách, tài liệu
do chính ông viết hoặc các tác giả khác viết về
ông, cũng như những thư từ trao đổi quan
điểm giữa ông với những người
viết thư hỏi ư kiến ông, chúng ta biết
được rằng Einstein không chỉ là nhà khoa học
thiên tài, mà c̣n là một nhà triết học lớn. Quan
điểm triết học của ông bao quát nhiều
lĩnh vực quan trọng, từ vấn đề
bản thể luận, nhận thức luận đến
các vấn đề chính trị, xă hội, con
người, đạo đức, tôn giáo,...Quan
điểm triết học của ông thấm
đượm tính duy vật biện chứng và tính nhân
bản sâu sắc.
Về bản thể luận. Einstein
khẳng định rằng thế giới tồn tại
khách quan không phụ thuộc vào thần thánh và ư chí con
người. Theo ông, vũ trụ hoạt động theo
quy luật khách quan, nhà khoa học không thể tin rằng Thượng
đế (Chúa trời) lại có thể can thiệp vào
sự vận hành của các thiên thể.
Ông nói: “Hăy giả dụ rằng
chúng ta đang nói về một nhà vật lư hay nhà khoa
học lư thuyết, anh ta rất quen thuộc với
những quy luật khác nhau của vũ trụ, thí dụ,
các hành tinh quay quanh mặt trời và các vệ tinh quay quanh
các hành tinh tương ứng như thế nào. Bây giờ,
nhà khoa học này đă nghiên cứu và hiểu
được những quy luật khác nhau đó, th́ làm sao
anh ta có thể tin rằng một vị Thượng
đế lại có thể làm sai lệch quỹ
đạo của những khối vật chất
khổng lồ đó...Các quy luật tự nhiên không
chỉ được khám phá về mặt thực
tiễn nữa. Tôi không tin vào quan niệm về một
vị Thượng đế được nhân cách hoá (an
Anthropomorphic God) có sức mạnh can thiệp vào những
quy luật tự nhiên”.
Chính v́ thế, theo Einstein, nhà khoa học không thể tin
rằng một lời cầu nguyện có thể làm thay
đổi được tiến tŕnh các sự kiện.
Ngày 19-1-1936, một học sinh lớp 6 ở New York, đă
viết thư cho Einstein hỏi rằng các nhà khoa học có
cầu nguyện không, và nếu có, th́ họ cầu
nguyện điều ǵ? Ngày 24-1, Einstein viết thư
trả lời như sau: “Việc nghiên cứu khoa học
dựa trên tư tưởng cho rằng tất cả
mọi quá tŕnh diễn ra đều bị quyết
định bởi quy luật tự nhiên, và điều này
cũng áp dụng cho mọi hoạt động của con
người. V́ lẽ đó, một nhà nghiên cứu khoa
học khó có khuynh hướng tin rằng những sự
kiện lại có thể bị ảnh hưởng bởi
một lời cầu nguyện, nghĩa là, một
điều mong ước được khấn vời
một thực thể siêu tự nhiên”.
Einstein cũng bác bỏ quan niệm tôn giáo về một
vị Thượng đế quyết định hành vi và
số phận của con người. Không dừng lại
ở đó, ông c̣n vặch ra bản chất của vị
thượng đế đó chính là phản ánh mục
đích chủ quan và sự yếu đuối của con
người. Ông nói: “Tôi không thể h́nh dung một vị
Thượng đế lại ban thưởng hay trừng
phạt những vật do ḿnh sáng tạo ra, một vị
Thượng đế mà mục đích được
phỏng theo mục đích của chúng ta – tóm lại,
một vị thượng đế chẳng qua chỉ là
phản ánh sự bạc nhược của con
người mà thôi”.
Thực ra, Einstein có nói đến Thượng
đế, nhưng đó là một vị Thượng
đế hoàn toàn khác với Thượng đế
của các tôn giáo đương thời. Thượng
đế của Einstein, đó chính là thế giới, là
giới tự nhiên với trật tự hợp lư của
nó mà lư trí con người có thể nhận thức
được; với những điều huyền
diệu của nó mà con người mới chỉ nhận
thức được một phần rất nhỏ. Quan
niệm này của Einstein cũng giống như quan
niệm phiếm thần luận của nhà triết
học Hà Lan Barúc Xpinoda (baruch Spinoza, 1632-1677). Xpinôda cho
rằng giới tự nhiên là thực thể duy nhất,
tồn tại độc lập, không do ai sáng tạo ra;
Thượng đế cũng chính là giới tự nhiên.
Cho nên, khi được hỏi: “Ông có tin vào Thượng
đế không?”. Einstein đă trả lời; “Tôi tin vào
thượng đế của Xpinôda đă mặc khải
chính ḿnh trong sự hài hoà có trật tự của những
ǵ đang tồn tại, chứ không phải một vị
Thượng đế liên quan đến số phận và
hoạt động của con người”.
Einstein không chỉ chống lại quan niệm duy tâm khách
quan về sự can thiệp của một lực
lượng siêu tự nhiên, mà c̣n bác bỏ cả quan
niệm duy tâm chủ quan về vai tṛ quyết định
của ư chí con người. Năm 1934, phát biểu tại
Hội nghị của Hiệp hội Hoa Kỳ v́ sự
phát triển của khoa học (American Association for the
Advancement of Science), ông nói: “Con người càng thấm
nhuần sự hiểu biết về tính quy luật
của sự kiện, anh ta càng tin tưởng vững
chắc rằng không có chỗ cho sự giải thích tính quy
luật này bằng những nguyên nhân khác với tự
nhiên. Đối với anh ta, không tồn tại những
quy tắc của con người cũng như quy tắc
của thần thánh với tư cách là nguyên nhân độc
lập của các sự kiện tự nhiên”.
Do đó, Einstein kịch liệt chống lại ư chí
luận (Voluntarism) – quan niệm cho rằng với ư chí
của ḿnh, cá nhân có thể thực hiện được
tất cả những điều mà ḿnh muốn. Theo
Einstein, con người không có tự do tuyệt đối
như các nhà triết học hiện sinh đă khẳng
định. Hành động của con người tuân theo tính
tất yếu khách quan không chỉ của thế giới
bên ngoài, mà c̣n cả của chính bên trong ḿnh. Ông nói: “Mỗi
người hành động không chỉ do sự bắt
buộc bên ngoài mà c̣n phải phù hợp với tính tất
yếu bên trong”. Ông nói tiếp: “Tôi không tin vào sự tự
do ư chí. Những lới nói sau đây của của
Sôpenhauơ (Schopenhauer): “Con người có thể làm
điều anh ta cần, nhưng không thể muốn có
được mọi điều anh ta muốn” đă
đi theo tôi trong mọi t́nh huống trong suốt cuộc
đời và đă hoà giải tôi với hành động
của người khác, ngay cả khi những hành
động này làm cho tôi khốn khổ”.
Einstein cũng không tin vào sự tồn tại của linh
hồn bất tử. Ông nói: “Tôi không tin rằng cá nhân con
người có thể tiếp tục sống sau cái
chết của cơ thể, mặc dù những tư
tưởng như vậy v́ sợ hay do tính duy ngă
đến lố bịch”.
Là người phát minh ra thuyết tương
đối, ông bác bỏ các quan niệm tôn giáo về sự
bất tử tuyệt đối của cá nhân, tức quan
niệm về cuộc sống vĩnh cửu ở
kiếp sau. Theo ông, chỉ có sự bất tử chân chính
duy nhất là sự bất tử của vũ trụ. C̣n
sự bất tử của cá nhân chỉ là một sự
bất tử tương đối mà thôi. Ông nói: “Sự
bất tử ư? Có hai loại. Loại thứ nhất
nằm trong trí tưởng tượng của con
người và do vậy chỉ là ảo tưởng.
Chỉ có một sự bất tử tương
đối (relative immortality), đó là sự duy tŕ trong kư
ức về một con người qua một số
thế hệ. Nhưng chỉ có một sự bất
tử chân chính duy nhất, trên phạm vi vũ trụ,
đó là sự bất tử của chính vũ trụ. Không
có sự bất tử nào khác”.
Quan niệm về sự bất tử tương
đối của Einstein về sau được nhiều
nhà khoa học, nhà triết học duy vật phát triển.
Theo quan điểm triết học duy vật phát triển.
Theo quan điểm triết học duy vật, linh hồn
bất tử và cuộc sống ở kiếp sau là
điều vô căn cứ và không thể tin
được. Nhưng cái chết của một con người
không đồng nhất với sự hư vô hoá, bởi
hành động và ư thức của người đó
vẫn được lưu giữ thông qua các thế
hệ con cháu, thông qua những công tŕnh mà người đó
để lại cho hậu thế, thông qua những kư
ức của nhiều thế hệ sau. Quan niệm này có
một ư nghĩa đạo đức cao hơn quan
niệm này có một ư nghĩa đạo đức cao
hơn quan niệm về sự bất tử tuyệt
đối của tôn giáo mà Einstein cho rằng nó xuất phát
từ tính ích kỷ, tính duy ngă (egoism, egoticism) của cá nhân.
Về nhận thức luận. Là nhà khoa
học, Einstein đứng trên quan điểm duy vật
về nhận thức. Ông không tin vào “Sự mặc
phải” (reverlation), tức là sự tiết lộ của
Thượng đế về những bí mật của
thế giới cho một vài người, mà trái lại, con
người nhận thức thế giới bằng chính lư
trí của ḿnh. Theo ông, mặc dù lư trí con người là
nhỏ bé, nhưng là cái duy nhất mà con người có
được để nhận thức thế giới.
Lúc đầu, giáo dục tôn giáo của nhà trường
đă biến ông thành người ngoan đạo tin
rằng, Kinh thánh là do chính Chúa trời mặc khải cho con
người. Nhưng từ năm 12 tuổi, nhờ
tiếp xúc với khoa học mà ông nhanh chóng đoạn tuyệt
được với niềm vui mù quáng đó. Ông nói:
“Nhờ đọc được những sách khoa học phổ
thông, tôi nhanh chóng nhận ra rằng phần nhiều
những câu chuyện trong Kinh thánh là không thể có thực”.
Einstein kịch liệt phê phán nạn mê tín dị đoan
cùng những lư thuyết bịa đặt về khả
năng nhận thức những bí mật của thế
giới thông qua sư liên hệ trực tiếp của linh
hồn con người với thần thánh, như chủ
nghĩa duy linh (Spiritualism), chủ nghĩa thần trí
(Theosophy). ông nói: "Khuynh hướng thần bí của
thời đại chúng ta đặc biệt thể
hiện ở sự gia tăng đột ngột của
cái gọi là chủ nghĩa thẩn trí và chủ nghĩa
duy linh, theo tôi chỉ là dấu hiệu của yếu
đuối và sự nhầm lẫn. Bởi v́ những kinh
nghiệm nội tâm của chúng ta chỉ là những
biểu tượng và sự kết hợp những
ấn tượng cảm tính, do đó quan niệm về
một linh hồn không có cơ thể đối với
tôi h́nh như chỉ là sự trống rỗng và vô
nghĩa"(10).
Là nhà khoa học lư thuyết, tất nhiên Einstein cũng
không ủng hộ chủ nghĩa kinh nghiệm (empiricism)
cũng như biểu hiện hiện đại của nó
là chủ nghĩa thực chứng mới (Neo-positivism). Tuy
nhiên, Einstein cũng chỉ ra những hạn chế
của chủ nghĩa duy lư (rationalism). ông nói: "Đúng
là niềm tin cần phải dựa một cách tất
nhất trên kinh nghiệm và tư duy. Về điểm này,
chúng ta phải đồng ư một cách không ngần
ngại với những người duy lư cực đoan.
Tuy nhiên, điểm yếu của quan điểm này là
ở chỗ, nhiều điều tin tưởng đóng
vai tṛ tất yếu và quyết định hành vi ứng
xử và sự phán xét của chúng ta lại không chỉ
được t́m thấy bằng phương pháp khoa
học cứng nhắc. Bởi v́, phương pháp khoa
học chỉ dạy cho chúng ta không có ǵ khác hơn là các
sự kiện liên hệ với nhau, quy định lẫn
nhau như thế nào. Khát vọng vươn tới tri
thức khách quan là cái tối cao mà con người có khả
năng đạt được, và các bạn chắc
sẽ không nghi ngờ tôi có ư định xem nhẹ
những thành tựu và những nỗ lực anh hùng
của con người trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, cũng
rơ ràng rằng tri thức về cái đang tồn tại
sẽ không mở cửa trực tiếp đi đến tri
thức về cái sẽ phải tồn tại. Một
người có thể có tri thức rơ ràng nhất, hoàn chỉnh
nhất về cái đang tồn tại, nhưng không
thể từ đó mà suy diễn ra rằng cái ǵ sẽ là
mục đích của những khát vọng của con
người chúng ta" (11).
Chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa duy lư và
chủ nghĩa thực chứng tuyệt đối hóa vai
tṛ của tri thức kinh nghiệm hoặc tư duy lôgíc,
nhưng theo Einstein, những tri thức và niềm tin
của chúng ta nhiều khi không dựa trên những cái
đó. Có những điều mà chúng ta tin là tất
đẹp trong cuộc sống nhưng chúng ta không thể
chứng minh bằng tư duy lôgíc được.
Tất nhiên, Einstein không quy những cái đó thành "cái
phi lư" như các nhà triết học hiện sinh.
Đồng thời, ông cũng không đồng ư với
quan niệm của các đại biểu của chủ
nghĩa thực chứng, một trào lưu triết
học đang thịnh hành ở nhiều nước
phương Tây lúc bấy giờ, quy mọi tri thức
của chúng ta về sự quan sát trực tiếp hoặc
về các công thức toán học và lôgíc học.
Theo ông, sự quan sát và thực nghiệm khoa học
chỉ giúp chúng ta giải thích một số hiện
tượng đang tồn tại; lư tính của con
người c̣n rất hạn chế và những công
thức lôgíc c̣n quá chật hẹp, chưa đủ
khả năng để giải thích tất cả mọi
điều. Do đó, chúng ta phải dựa ' vào toàn bộ
kinh nghiệm sông của các thế hệ đi
trước cũng như của chính ḿnh và nhiều khi c̣n
phải nhờ đến trực giác khoa học. ông nói:
"Tôi không tin bất cứ quan niệm nào về
Thượng đế dựa trên sự sợ hăi trong
cuộc sống và cái chết. Tôi không thể chứng minh
được rằng không có một vị Thượng
đế có nhân tính, nhưng nếu tôi nói về ông ta th́
tôi sẽ là kẻ bịa đặt" ... "Tôi tin vào
t́nh hữu ái của con người và tính độc
đáo của cá nhân. Nhưng nếu bạn bảo tôi
phải chứng minh điều tôi tin th́ tôi không thể làm
được. Chúng ta biết đó là những
điều chân thật nhưng chúng ta có thể mất
cả đời người mà không thể chứng minh
được chúng"(12).
Mặc dù lúc bấy giờ có những lư thuyết khoa
học "đă đặt tính nhân quả cơ giới
trong sự nghi ngờ", nhất là phủ nhận nó
trong thế giới vi mô [thí dụ, cơ học
lượng tử của Mắc Blăng (Max Planck), lư
thuyết nguyên tử của Ninxơ Bo (Niels Bohr], nhưng
Einstein vẫn tin vào sự thống nhất giữa thê'
giới vĩ mô và vi mô, vào tính phổ biến của
quyết định luận duy vật trong cả hai
thế giới đó. ông đă dành 30 năm cuối của
cuộc đời để chứng minh cho niềm tin
đó, nhưng ông thú nhận đă không thành công. Tuy nhiên,
theo nhận xét của Giáo sư vật lư lư thuyết
Hanốc Gútphaunđơ, cố vấn của Viện
Bảo tàng về lịch sử tự nhiên của Mỹ
ở
Về quan điểm chính trị - xă hội.
Lư tưởng của Einstein là một xă hội công
bằng và b́nh đẳng, trong đó không có sự phân
biệt giai cấp, phân biệt chủng tộc. ông
đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc, chủ
nghĩa apácthai (aparthéd). ông ủng hộ chế độ
dân chủ, trong đó mọi cá nhân được tôn trọng
và bảo vệ, nhưng đồng thời ông cũng
chống lại tệ sùng bái cá
nhân. Ông nói: "Quan điểm chính trị của tôi là
chế độ dân chủ. Hăy để mọi cá nhân
được tôn trọng vả không có người nào
được thẩn tượng hóa" . . . "Tôi
chống lại chủ nghĩa dân tộc, dù nó có
đội lất chủ nghĩa yêu nước". . . "Đặc
quyền đặc lợi dựa trên địa vị và
tài sản, đối với tôi, là bất công và có hại,
cũng như sự sùng bái cá nhân một cách quá
đáng"... "B́nh đắng xă hội và sự bảo
trợ về kinh tế cho cá nhân, theo tôi là những mục
đích cộng đồng quan trọng nhất của nhà
nước" (13).
Einstein ủng hộ ḥa b́nh, chông chiến tranh. Theo ông,
nếu một cuộc chiến tranh thế giới lần
thứ ba nổ ra th́ nhân loại sẽ trở lại
thời kỳ đồ đá. ông nói: Tôi không biết
người ta sẽ sử dụng loại vũ khí ǵ
trong chiến tranh thế giới lần thứ ba. Nhưng
trong chiến tranh thế giới lẩn thứ tư,
chắc chắn người ta sẽ sử dụng cây
gậy và ḥn đá. Einstein có cách tiếp cận một cách
duy vật về đạo đức. ông bác bỏ quan
niệm về nguồn gốc thần thánh của
đạo đức. Theo ông, "Hành vi đạo
đức của một người phải dựa
một cách có hiệu quả trên t́nh cảm, giáo dục,
quan hệ và nhu cầu xă hội; không cần có một
cơ sở tôn giáo nào. Con người sẽ thật là
tồi tệ nếu anh ta phải kiểm chế v́ sợ
bị trừng phạt hoặc hy vọng ở sự ban
thưởng sau khi chết"(14).
Trong một cuộc trao đổi ư kiến, Pitơ
A.Búcki (Peter A.Bucky) đă hỏi Einstein: "ông có nghĩ
rằng hầu hết mọi người cần tôn giáo
để kiểm soát họ chăng?". Einstein đáp:
Không, rơ ràng không. Tôi không tin một người phải kiềm
chế trong hành vi hàng ngày của ḿnh v́ sợ trừng
phạt sau khi chết hoặc anh ta phải làm như
vậy để được ban thưởng sau khi
chết.
Điều đó thật vô nghĩa. Sự chỉ
dẫn đúng đần trong cuộc sống của con
người là gánh nặng trách nhiệm mà anh ta đặt
nó lên đạo đức và khối lượng của
sự quan tâm mà anh ta dành cho người khác. Giáo dục có
vai tṛ to lớn trong lĩnh vực này. Tôn giáo không
được gây ra sự sợ hăi trong cuộc sống
và sự Bợ hăi về cái chết, mà phải thay vào
đó bằng sụ phấn đấu để
đạt đến tri thức lư tính"(15).
Theo Einstein, những nguyên tắc đạo đức
phải xuất phát từ mục đích phục vụ cho
sự tồn tại và hạnh phúc của con người;
nếu làm theo chúng th́ "sẽ mở rộng tối
đa phạm vi của sự an toàn, sự thỏa măn và
thu hẹp đến mức tối đa t́nh trạng
đau khổ”( 16) của con người.
(1) Dẫn theo: Peter A. Bucky with allen
G Weaklan, Andrews and McMeel, The Private
(2) Albert Einstein: The Human Side. Selected
and Edited by Helen Dukas and Banish
(3)Albert Einstein The word as i see. It
philosophical Library,
(4) Albert /einstein: Philosopher –
Scientist. Edited by Paul Arthur Schilpp, The open Court Publishing Co., La
Salle, Illinois, Third Edition, 1970, pp, 659 -660.
(5)Albert Einstein: Ideas and opinons. Based
on Mein Weltbild, edited by Carl Seelig, New Yord, Bonzana Books, 1954, pp. 8
-11.
(6) Albert Einstein: The word as i See it.
Ibid pp. 24 -28.
(7) Albert Einstein:, All the Questions You
Ever wanted to ask American Atheists, vol. II. Quoted by Madalynn Murray O’
hair, 1982, p. 29.
(8) Xem: Nguyễn Tần Hùng. Quan
niệm về sự bất tử của con người.
Tạp chí Tâm lư học, số 10, 2002, tr.59 -63.
(9) Albert
Einstein: Philosopher – Scientist. Ibid.,pp. 659 -669.
(10) Albert
Einstein: Phi/osopher - Scientist. Ibid.,
pp. 659 - 669.
(11) Ronald W. Clark. Einstein : The Life and
Times. World Pub. Co. ,
(12) Albert Einstein: Ideas and Opinions.
Ibid., pp. 8-11.
(13) Albert Einstein: Ideas anđ
Opinions. Ibid., pp. 8-11
(/4) A/bert Einstein. Religion and Science.
New York Times Magazine,
(15) Peter A. Bucky ẃth Allen G.Weakland,
Andrews and McMeel. The Private Albert Einstein. Kansas Cây, 1992, pp. 85 - 87.
(16) Albert Einstein. Out of My Later Years.
Philosophical Library.