Kim cương (Diamond)
|
|
1. Khái quát chung
Tên gọi kim cương trong nhiều ngôn ngữ châu Âu đến từ tiếng Hy Lạp adamas (αδάμας có nghĩa là “không thể phá hủy”). Trong tiếng Việt chữ "kim cương" có gốc Hán-Việt (金剛), có nghĩa là "kim loại cứng". Chúng đã được sưu tầm như một loại đá quý và sử dụng trên những biểu tượng tôn giáo của người Ấn Độ cổ cách đây ít nhất 2.500 năm. Người ta còn tìm thấy kim cương đầu mũi khoan, cũng là dụng cụ để khắc lên đá đối với người cổ đại. Một viên kim cương được đánh giá theo một hệ thống chất lượng 4C: "carat" (khối lượng), "clarity" (độ trong suốt), "color" (màu sắc) và "cut" (cách cắt) và hiện nay có khi người ta còn đánh giá theo tiêu chuẩn 6C, thêm "cost" (giá cả) và certification (giấy chứng nhận, kiểm định). Mặc dù kim cương nhân tạo được sản xuất với khối lượng gần gấp 4 lần so với kim cương tự nhiên nhưng phần lớn chúng được dùng vào mục đích công nghiệp vì hầu hết chúng là những viên kim cương nhỏ và không hoàn hảo tuy hiện điều này đã cải thiện rõ rệt với những công nghệ làm kim cương nhân tạo mới.
Khoảng 49% kim cương được khai thác ở Trung Phi và Nam Phi, mặc dầu một số lượng lớn kim cương cũng được tìm thấy ở Canada, Ấn Độ, Nga, Brasil, Úc. Hầu hết chúng được khai thác ở những miệng núi lửa đã tắt, sâu trong lòng Trái Đất nơi mà áp suất và nhiệt độ cao làm thay đổi cấu trúc của các tinh thể.
2. Thành phần
hoá học
và cấu
trúc tinh thể
2.1. Thành phần
hoá học
Trong tất cả các loại đá quý, kim cương
là loại
khoáng vật
có thành phần
hoá học
đơn
giản
nhất,
nó được
cấu
tạo
duy nhất
bởi
nguyên tố
cacbon. Kim cương
và graphit là hai biến
thể
của
cacbon nhưng
lại
hoàn toàn khác nhau về
cấu
trúc tinh thể
và các tính chất
khác.
Ở
điều
kiện
nhiệt
độ
cao và áp suất
lớn
nguyên tử
C
ở
trạng
thái sp3 và tạo
ra 4 mối
liên kết
với
4 nguyên tử
C khác bằng
mối
liên kết
đồng
hoá trị,
góc giữa
chúng là 109,280. Trong tinh thể
kim cương
C chiếm
tỉ
lệ
vào khoảng
96 - 99,8%, ngoài ra còn có mặt
25 nguyên tố
tạp
chất
với
một
lượng
rất
nhỏ:
H, B, N, O, Na, Mg, Al, P, Ca, Sc, Ti, Cr, Mn, Fe, Co, Cu, Sr, Ba, Zn, La, Lu,
Pt, Au, Ag và Pb.
- Ni tơ
là nguyên tố
tạp
chất
chủ
yếu
trong kim cương,
nó có
ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
tính chất
(màu sắc,
khả
năng phát quang, màu sắc
phát quang dưới
tia cực
tím...) và cấu
trúc tinh thể
kim cương.
Sự
phân loại
kim cương
cũng dựa
vào sự
có mặt
và hàm lượng
của
N.
- Trong kim cương
các nguyên tố
tạp
chất
có mặt
thường
xuyên (cố
định)
là: Si, Al, Ca, Mg và Mn. Các nguyên tố
thường
phát hiện
được
là: Na, Ba, Cu, Fe, B, Cr và Ti. Trong loại
kim cương
có vỏ
bọc
thường
xuyên có mặt
Fe và Ti (cùng với
nhau), trong khi
ở các dạng
thông thường
khác Fe được
nhận
diện
không thường
xuyên còn Ti lại
càng hiếm
khi gặp.
Các nguyên tố
tạp
chất
còn lại
như:
Sr, Co, Zr, P, Sc, La, Lu, Pt, Ag, Au và Pb được phát hiện trong một số trường hợp.


Kim cương màu hồng và kim cương màu lục
2.2. Cấu trúc tinh thể
- Cấu trúc tinh thể
Kim cương
được
kết
tinh theo tính hệ
lập
phương,
chủ
yếu
là bát diện
cũng có thể
là 12 mặt
thoi. Mỗi
nguyên tử
C liên kết
với
4 nguyên tử
C liền
kề
nằm
ở
vị
trí đỉnh
của
tứ
diện
đều.
Khoảng
cách giữa
các nguyên tử
liền
kề
là 0,154 nm. Kích thước
không đổi
của
mạng
tinh thể
là 0,356 nm.
Trong tất cả các đơn chất, kim cương có tối đa số lượng nguyên tử C nằm trong một đơn vị thể tích, tức là các nguyên tử C được sắp xếp một cách rất chặt xít. Từ 18 nguyên tử C, 8 nguyên tử được sắp xếp ở đỉnh của khối lập phương, 6 ở tâm các mặt của khối lập phương và 4 ở tâm của 4 trong 8 khối lập phương nhỏ.

Mô hình cấu trúc tinh thể kim cương
- Các dạng
tinh thể
thường
gặp
Kim cương
có thể
tồn
tại
dưới
dạng
đơn
tinh hay đa tinh. Tinh thể
kim cương
có hình dạng
bát diện
(khối
tám mặt),
khối
12 mặt
và khối
lập
phương
và các tinh thể
có dạng
phối
hợp,
các tinh thể
có các cạnh
lồi...

Tinh thể
kim cương
dạng
bát diện
trong đá gốc
Các kết
quả
nghiên cứu
đã cho thấy
có sự
khác biệt
giữa
các dạng
tinh thể
kim cương
về
hình dạng,
cấu
tạo
bên trong... và tổ
hợp
các tính chất.
Trong quá trình kết
tinh các tinh thể
có các mặt
phẳng
được
tạo
ra. Hình dáng nguyên thuỷ
cũng như
nhiều
tính chất
có khả
năng bị
biến
đổi
do quá trình hoà tan, ăn mòn, hình thành các đốm
màu, biến
dạng
dẻo...
và như
vậy
tạo
ra các dạng
khác nhau của
tinh thể
kim cương.
Chúng không giống
nhau về
cấu
tạo
bên trong cũng như
về
hình dạng
phát triển
và các đặc
điểm
hình thái.
2.3. Phân loại
kim cương
Kim cương
được
chia thành hai loại
chính loại
I và loại
II dựa
trên thành phần
của
các nguyên tố
ngoại
lai có mặt
trong cấu
trúc tinh thể.
- Loại
I: Chứa
một
tỷ
lệ
nhỏ
- Loại
II: Hầu
như
không chứa
N (tỷ
lệ
N nhỏ
hơn
0,001%). Màu sắc
của
nó thường
là màu nâu nhạt
tới
nâu, rất
hiếm
khi không màu, trong trường
hợp
đặc
biệt
có màu xanh (khi có mặt
B, đóng vai trò nguyên tố
vết).
Loại
II được
chia thành loại
IIa và loại
IIb. Loại
IIa: lượng
N trong nó không thấy
rõ. Loại
IIb có chứa
B và có tính bán dẫn.
Tất
cả
kim cương
có màu xanh da trời
đều
thuộc
loại
IIb.
- Loại III (Ionsdaleite): kim cương được tìm thấy trong các thiên thạch với cấu trúc sáu phương thay vì khối lập phương, kim cương nhân tạo.
3. Các tính chất
vật
lý và quang học
3.1. Tính chất
vật
lý
- Độ cứng: Kim cương
là khoáng vật
cứng
nhất
trong tất
cả
các khoáng vật
của
tự
nhiên (10 theo thang Mohs).
- Cát khai: Kim cương
thể
hiện
sự
khát khai hoàn toàn theo mặt
[111].
- Vết vỡ phẳng, xếp lớp, vỏ sò.
- Tỷ trọng: Tỷ trọng của tinh thể kim cương
tinh khiết
có cấu
trúc tinh thể
hoàn hảo
hầu
như
không đổi
và gần
bằng
3,5 g/cm3 ± 0,01 - 0,02 g/cm3. Thực tế tỷ trọng của kim cương
thiên nhiên biến
thiên từ
3,1 - 3,6 g/cm3. Tỷ
trọng
của
kim cương
biến
thiên không phải
chỉ
đối
với
loại
đa tinh thể
mà còn đối
với
cả
loại
đơn
tinh thể
có độ
tinh khiết
cao và còn liên quan đến
màu sắc.
+ Không màu: 3,500
+ Xanh lá cây: 3,523
+ Xanh da trời:
3,525
+ Màu hồng:
3,531
+ Màu da cam: 3,550
Kim cương
bị
ăn mòn
ở nhiệt
độ
cao trong môi trường
một
số
loại
khí: O, CO, CO2, H, hơi
nước,
Cl.
Kim cương
bị
cháy trong luồng
ô xy
ở nhiệt
độ
7200C.
|
C |
O2 |
> CO2 |
|
720 - 8000C |
Trong không khí kim cương
cháy
ở nhiệt
độ
8500C
|
C |
Không khí |
>
CO2 |
|
850 - 10000C |
Trong môi trường
không có ô xy
ở nhiệt
độ
20000C - 30000C kim cương
bị
graphit hoá.
Trong môi trường
có bảo
vệ
(trong N, các khí trơ,
chân không, hidro) kim cương
không bị graphit hoá ngay cả
ở
nhiệt
độ
1150 - 12000C.
- Các tính chất khác:
+ Tính dẫn
nhiệt:
Kim cương
thể
hiện
tính dẫn
nhiệt
cao.
Ở
trong các điều
kiện
nhiệt
độ
khác nhau, kim cương
thể
hiện
tính dẫn
nhiệt
khác nhau.
Các tinh thể
có khuyết
tật
có thể
bị
nổ
khi nung nóng. Nhưng
tinh thể
kim cương
hoàn hảo
có thể
nung đến
nhiệt
độ
1800 - 18500C và hạ
nhiệt
nhanh mà không bị
phát huỷ.
+ Tính dẫn
điện:
Trong thực
tế
ở
điều
kiện
nhiệt
độ
bình thường
kim cương
là một
chất
cách điện,
nhưng
nó cũng có thể
được
nhìn nhận
là một
chất
bán dẫn
trong vùng cấm
rộng
DE = 5,7 ev. Các tạp
chất
làm giảm
giá trị
điện
trở
riêng.
- Chiết suất, tán sắc, ánh: Kim cương
kết
tinh theo hệ
lập
phương,
đơn
chiết.
Chỉ
số
khúc xạ
trung bình của
kim cương
(trong ánh sáng vàng natri): 2,4175 ± 0,0003. Khi lượng
bao thể
trong kim cương
tăng lên, chỉ
số
khúc xạ
cũng tăng lên đến
giá trị
cao nhất
là 2,421. Đối
với
kim cương
có màu phớt
vàng chỉ
số
khúc xạ
có thể
biến
thiên trong khoảng
2,419 - 2,421 và thông thường
là 2,417.
Đối
với
các tia màu sắc
khác nhau, chỉ
số
khúc xạ
của
kim cương
cũng khác nhau:
+ Đối
với
tia màu đỏ
: 2,402
+ Đối
với
tia màu vàng : 2,417
+ Đối
với
tia màu xanh lá cây : 2,427
+ Đối
với
tia màu tím : 2,465
Như
vậy
chỉ
số
khúc xạ
của
kim cương
thay đổi
rất
lớn
phụ
thuộc
vào độ
dài bước
sóng. Độ
tán sắc
của
kim cương
rất
lớn
bằng
0,065 (chiết
xuất
của
tia đỏ
687,6 nm = 2,4077, chiết
xuất
của
tia tím 430,8 nm = 2,4512), nB - nG = 0,044. Hiệu
ứng này trong kim cương
tạo
ra sắc
óng ánh cho viên đá và được
gọi
là “ánh lửa”.
- Hiện tượng giải dị hướng
ở kim cương:
Tinh thể
kim cương
thuộc
hệ
lập
phương,
như
vậy
phải
thể
hiện
đẳng
hướng
về
mặt
quang học,
tuy nhiên
ở nó người
ta thường
quan sát thấy
hiện
tượng
giả
dị
hướng.
Hiện
tượng
giả
dị
hướng
được
tạo
ra bởi
ứng
suất
bên trong do nhiều
nguyên nhân. Hiện
tượng
giả
dị
hướng
có những
dạng
sau: dạng
sao, dạng
dải,
dạng
lưới...
- Phổ hấp thụ: Phổ hấp thụ của hầu hết kim cương
có thể
chia ra thành hai nhóm chính:
+ Nhóm I: Là nhóm màu của
nó từ
không màu tới
màu vàng, phát quang có màu xanh da trời.
Đối
với
nhóm này vạch
hấp
thụ
rõ nét nhất
ở
vị
trí 4155
l
trong vùng màu tím của
dải
phổ.
Vạch
này rõ nét đối
với
những
màu đậm
nhưng
hầu
như
có mặt
thậm
chí
ở
kim cương
không màu. Các vạch
phổ
khác đi cùng với
nó là: 4785, 4650, 4520, 4350 và 4230. Tất
cả
các vạch
này đều
năm
ở
vùng màu tím. Trong tất
cả
các vạch
này thực
tế
có thể
nhìn thấy
là vạch
4785.
+ Nhóm II: bao gồm
kim cương
có màu nâu, màu vàng phớt
xanh hoặc
màu xanh và những
loại
thể
hiện
màu xanh rực
rỡ
dưới
tia cực
tím. Kim cương
trong nhóm này quan sát thạy
vạch
rõ và hẹp
ở
vị
trí 5040 A0
ở vùng màu xanh của
dải
phổ.
Các vạch
yếu
khác là: 5370 A0 và 4980 A0 có thể có mặt.
Cũng có loại kim cương không màu, màu vàng sáng và màu vàng nâu có phát quang màu vàng rực rỡ dưới tia cực tím. Ở những chủng loại này không quan sát được những dải hấp thụ riêng biệt ngoài một vạch yếu ở 4155 A0. Kim cương màu xanh (loại IIb) không qua sát thấy phổ hấp thụ.

Dải phổ hấp thụ của kim cương tự nhiên
- Tính phát quang: Màu sắc phát quang của kim cương rất khác nhau và phụ thuộc vào phương pháp kích thích. Như một số tinh thể kim cương phát quang màu xanh da trời, một số khác phát màu vàng hay màu xanh lá cây.

Phát quang màu xanh lơ dưới tia cực tím sóng dài
- Màu sắc: Kim cương
có đủ
các loại
màu. Kim cương
hoàn toàn không màu rất
hiếm,
chủ
yếu
từ
không màu tới
có sắc
màu vàng nhạt
hoặc
nâu nhạt.
Bên cạnh
loại
không màu như
trên cũng gặp
những
tinh thể
có màu nhạt
nhưng
thể
hiện
rõ ràng cũng như
các màu đậm:
vàng, xanh lá cây, nâu, hồng,
tím phớt
hồng,
xanh cửu
long, trắng
sữa,
xám và cả
màu đen.
+ Kim cương
màu vàng bao gồm
loại
có pha chút sắc
vàng đến
loại
có màu vàng và vàng rơm
tương
đối
phổ
biến
hơn
so với
các loại
kim cương
có màu khác.
+ Kim cương
màu xanh lá cây.
+ Kim cương
màu xanh da trời:
trong thiên nhiên loại
kim cương
có màu xanh cửu
long hoặc
màu xanh da trời
rất
hiếm,
nó thuộc
loại
IIb tức
là loại
không chứa
N. Tất
cả
các dạng
này thể
hiện
tính dẫn
điện
(chất
bán dẫn),
phát lân quang sau khi chiếu
tia cực
tím. Người
ta cho rằng
kim cương
loại
này chứa
B.
+ Kim cương
màu hồng
hoa huệ
và màu nâu ám khói liên quan với
các sai hỏng
tại
các mặt
trượt
do biến
dạng
dẻo
sau kết
tinh. Các sai lệch
xuất
hiện
ở
các mặt
trượt
gây nên sự
hấp
thụ
ánh sáng và tạo
nên màu.
+ Kim cương
màu trắng
sữa,
màu xám và màu đen: các vân đục
do các sai lệch
rất
nhỏ
trong cấu
trúc tinh thể,
màu xám và màu đen phụ
thuộc
vào số
lượng
các bao thể
màu đen.
Việc phân cấp màu sắc kim cương nhóm “không màu” được tiến hành theo các quy định chặt chẽ (sẽ được giới thiệu trong phần phân cấp chất lượng và định giá).
4. Nguồn gốc và phân bố
Kim cương
được
tạo
thành từ
những
khoáng vật
có chứa
cacbon dưới
nhiệt
độ
và áp suất
rất
cao. Trên Trái Đất,
mọi
nơi
đều
có thể
có kim cương
bởi
vì
ở một
độ
sâu nào đó thì sẽ
tồn
tại
nhiệt
độ
đủ
cao và
áp suất
đủ
lớn
để
tạo
thành kim cương.
Trong những
lục
địa,
kim cương
bắt
đầu
hình thành
ở độ
sâu khoảng
150 km (90 dặm),
nơi
có áp suất
khoảng
5 gigapascal và nhiệt
độ
khoảng
1200 độ
Celsius (2200 độ
Fahrenheit). Trong đại
dương,
quá trình này xảy
ra
ở các vùng
sâu hơn
do nhiệt
độ
cần
cao hơn
nên cần
áp suất
cũng cao hơn.
Khi những
áp suất
và nhiệt
độ
dần
giảm
xuống
thì viên kim cương
cũng theo đó mà lớn
dần
lên.
Qua những
nghiên cứu
tỉ
lệ
các
đồng
vị
(giống
như
phương
pháp xác định
niên đại
lịch
sử
bằng
C-14) ngoại
trừ
việc
sử
dụng
những
đồng
vị
bền
như
C-12 và C-13, carbon trong kim cương
được
đến
từ
cả
những
nguồn
hữu
cơ
và vô cơ.
Các nguồn
vô cơ
có sẵn
ở lớp
trung gian của
Quả
Đất
còn các nguồn
hữu
cơ
chính là các loại
cây đã chết
chìm xuống
dưới
mặt
đất
trước
khi biến
thành kim cương.
Cả
hai nguồn
này có tỉ
lệ
13C:12C khác nhau rất
lớn.
Kim cương
được
cho rằng
đã hình thành trên mặt
đất
trước
đây rất
lâu, khoảng
1 tỉ
năm đến
3,3 tỉ
năm.
Ngoài ra kim cương còn có thể được hình thành trong những hiện tượng có áp suất và nhiệt độ cao khác. Người ta có tìm thấy trong tâm thiên thạch những tinh thể kim cương có kích thước cực kì nhỏ sau khi chúng rơi xuống đất tạo nên một vùng có áp suất và nhiệt độ cao để phản ứng tạo kim cương xảy ra. Những hạt bụi kim cương được dùng trong khoa học hiện đại để xác định những nơi đã có thiên thạch rơi xuống.

Mô hình các ống nổ chứa kim cương
Những
đá gốc
mang kim cương
bị
kéo lại
gần
đến
nơi
núi lửa
phun do áp suất.
Khi núi lửa
phun,
nham thạch
phải
đi qua vùng tạo
ra kim cương
90 dặm
(150 km). Điều
đó rất
hiếm
khi xảy
ra.
Ở dưới
có những
mạch
nham thạch
ngầm
vận
chuyển
nham thạch
và lưu
giữ
ở đó nhưng
sẽ
không trào ra khi núi lửa
hoạt
động.
Những
mạch
chứa
kim cương
thường
được
tìm thấy
ở những
lục
địa
cổ
bởi
vì chúng chứa
những
mạch
nham thạch
cổ
lâu nhất.
Các nhà
địa
chất
học
sử
dụng
các dấu
hiệu
sau để
tìm những
vùng có kim cương:
những
khoáng vật
ở vùng đó thường
chứa
nhiều
crôm hay
titan, cũng rất
thông dụng
trong những
mỏ
đá quý có màu sáng.
Khi kim cương
được
các
ống nham thạch
đưa
gần
lên mặt
đất,
chúng có thể
bị
"rò rỉ"
qua một
khu vực
lớn
xung quanh. Một
ống nham thạch
được
đánh giá là nguồn
kim cương
chính. Ngoài ra còn có thể
kể
đến
một
số
viên kim cương
rải
rác do các nhân tố
bên ngoài (môi trường,
nguồn
nước).
Tuy nhiên, số
lượng
này cũng không lớn.
Kim cương còn có thể bị đưa lên mặt đất khi có sự đứt gãy các lục địa mặc dù điều này vẫn chưa được hiểu rõ ràng và hiếm xảy ra.

Sự phân bố các mỏ kim cương ở lục địa châu Phi
5. Đặc điểm
bao thể
Các bao thể
thường
gặp
trong kim cương
bao gồm:
bao thể
kim cương,
granat, olivin, enstatit, diopxit
và cromdiopxit, cromspinen, rutin, manhetit, graphit.
Ngoài các bao thể
rắn
trong kim cương
cũng phát hiện
thấy
các bao thể
khí lỏng
nhưng
rất
ít gặp.
Các bao thể
trong kim cương
còn bao gồm
các khe nứt,
các đường
sinh trường,
đường
song tinh, phân đới
màu ...
Phân cấp chất lượng kim cương theo mức độ chứa các bao thể được tuân theo các quy định chặt chẽ (sẽ được giới thiệu trong phần phân cấp chất lượng và định giá).

Một số bao thể tự nhiên trong kim cương


Các bao thể
nhóm granat

6. Chế tác
- Các hình dạng
chế
tác phổ
biến
của
kim cương:
hình tròn briliant, ovan, quả lê, hạt thóc, kiểu emơrôt,
hình trái tim, hình tấm,
tròn đơn
và các kiểu
“Fancy cut”.
- Kiểu
tròn brilliant :
Các phần
và sự
sắp
xếp
các mặt
giác trong viên kim cương
tròn kiểu
briliant.
|
Tên gọi
các mặt
giác |
Số
lượng |
|
a. Mặt bàn |
1 |
|
b. Mặt chính trên (mặt
vát) |
8 |
|
c. Mặt sao |
8 |
|
d. Mặt trên thắt lưng |
16 |
|
e. Mặt chính dưới (mặt chính phần đáy) |
8 |
|
f. Mặt dưới thắt lưng |
16 |
|
g. Đỉnh chóp |
0 hoặc
1 |
|
Tổng số mặt |
57 hoặc
58 |

Các bộ phân của một viên kim cương đã chế tác chuẩn
Kĩ thuật
cắt
kim cương
vừa
là một
môn khoa học
vừa
là một
nghệ
thuật.
Nó miêu tả
quá trình viên kim cương
được
thành hình và đánh bóng từ
dạng
viên đá đầu
tiên đến
một
viên ngọc
sáng ngời.
Có rất
nhiều
công trình nghiên cứu
toán học
được
nghiên cứu
nhằm
làm cho lượng
ánh sáng mà nó phản
xạ
được
là nhiều
nhất.
Một
trong số
đó là công trình của
nhà toán học
yêu thích khoáng vật
Marcel Tolkowsky.
Ông là người
nghĩ ra cách cắt
hình tròn và
đã đề
ra các tỉ
lệ
thích hợp
cho nó. Một
viên kim cương
được
cắt
theo kiểu
hình tròn hiện
đại
trên bề
mặt
có tất
cả
57 mặt.
Trong đó, phần
trên có 33 mặt
và phần
dưới
có 24 mặt.
Phần
trên có nhiệm
vụ
tán xạ
ánh sáng thành nhiều
mằu
sắc
khác nhau trong khi phần
bên có nhiệm
vụ
phản
xạ
ánh sáng.
Tolowsky đã đưa
ra các tỉ
lệ
sau
- Tỉ
lệ
giữa
đường
kính mặt
trên cùng và đường
kính mặt
giữa:
53%
- Tỉ
lệ
giữa
độ
sâu và đường
kính mặt
giữa:
59,3%
- Góc giữa
mặt
dưới
và phương
ngang: 40,75°
- Góc giữa
mặt
trên và phương
ngang: 34,5°
- Tỉ
lệ
giữa
độ
sâu phần
dưới
và đường
kính mặt
giữa:
43,1%
- Tỉ
lệ
giữa
độ
sâu phần
trên và đường
kính mặt
trên: 16,2%
Ngoài ra
ở chóp dưới
viên kim cương
phải
nhọn,
nếu
không thì ánh sáng sẽ
đi qua dễ
dàng. Thế
nhưng
trong thực
tế
thì người
ta thường
làm với
đường
kính bằng
1-2% đường
kính mặt
giữa.
7. Các nhận
biết
kim cương
7.1. Những
dấu
hiệu
nhận
biết
kim cương
bằng
mắt
thường:
- Ánh: đặc
điểm
đặc
trưng
của
kim cương
là có ánh kim cương,
được
tạo
bởi
độ
cứng
có một
không hai của
nó, hệ
số
khúc xạ
cao, độ
tán sắc
lớn
và bàn tay điêu luyện
của
người
thợ
mài.
- Độ
cứng
là 10 theo thang Mohs tạo
cho sản
phẩm
kim cương
sau khi chế
tác một
bề
mặt
rất
phẳng
và bóng với
những
cạnh
giữa
các mặt
thẳng
và sắc
nét.
- Kim cương
được
chế
tác hoàn hảo,
trên thực
tế
tất
cả
ánh sáng vào viên kim cương
qua mặt
trên của
viên đá được
phản
xạ
toàn phần
bởi
những
mặt
facet đáy, không có phần
ánh sáng nào qua viên kim cương
được.
Như
vậy
khi quan sát viên kim cương
từ
dưới
lên ta chỉ
nhìn thấy
một
chấm
sáng rất
nhỏ
ngoài ra không nhìn thấy
gì khác mặc
dù viên kim cương
là trong suốt.
- Chiết
xuất,
độ
tán sắc
của
kim cương
lớn
hơn
hẳn
các loại
đá khác (ngoại
trừ
fabulit 0,190 và rutin nhân tạo
có độ
tán sắc
cao hơn,
nhưng
rutin lại
có khúc xạ
kép và fabulit có độ
cứng
thấp
hơn
nhiều).
- Phần
sót của
các mặt
tự
nhiên
ở
phần
thắt
lưng.
Ngoài các tam giác mọc
trên rìa còn thấy
phần
rìa rất
thô sơ
với
các loại
đá khác.
- Ái lực
cao với
dầu
mỡ:
nếu
mặt
viên kim cương
đã chế
tác bị
sờ
tay vào sẽ
có một
lớp
váng dầu
mỏng
ở
bề
mặt.
7.2. Xác định
kim cương
bằng
các thiết
bị
- Chiết suất: + Trong các đá tự
nhiên chỉ
có zircon (n = 1,926 - 1,985), demantoid (n = 1,89) và sfen (n = 1,9 - 2,03) có
chiết
xuất
gần
giống
kim cương.
Trong đó chỉ
có zircon là không màu và chỉ
có demantoid là đẳng
hướng.
Zircon và sfen quan sát dưới
kíp lúp sẽ
thấy
các cạnh
đáy bị
nhân đôi, còn demantoid sẽ
thấy
bao thể
“đuôi ngựa”
đặc
trưng.
- Trong số
các đá nhân tạo
có rutin (n = 2,62 - 2,90) và titanat stronxi (fabulit n = 2,41) có chiết
suất
gần
giống
với
kim cương
và fabulit lại
là đẳng
hướng.
Rutin có thể
nhận
thấy
ngay bởi
hiện
tượng
khúc xạ
kép rất
rõ, nó có ánh rất
mạnh
(gần
như
opan lửa)
có sắc
vàng rất
rõ. Fabulit có ánh lửa
hơn
hẳn
kim cương,
nhưng
fabulit lại
có độ
cứng
rất
thấp.
- Đối
với
các loại
đá nhân tạo
không màu như
saphia và spinen có thể
phân biệt
bằng
chiết
suất
hoặc
nhúng vào iodua metylen.
- Tính phát quang: Ngoại
trừ
dùng tia X có thể
phân biệt
được
kim cương,
còn tính phát quang nói chung của kim cương
không phải
là tính chất
giám định
vì kim cương
phát quang rất
khác nhau. Tuy nhiên đây cũng là tính chất
có tác dụng
hỗ
trợ.
- Phổ hấp thụ: Hầu hết kim cương
đều
có dải
hấp
thụ
ở
vùng tím sẫm
(415 nm). Tốt
nhất
là dùng lọc
mầu
lam, nhìn song song với
mặt
phẳng
thắt
lưng.
Khi thấy
vạch
hấp
thụ
này thì chắc
chắn
đó là kim cương.
Trong loại
kim cương
“cape” ngoài vạch
này còn nhìn thấy
vạch
ở
vùng xanh tím 478 nm.
- Các đặc điểm bên trong: Các bao thể
trong kim cương
khá đặc
trưng
có thể
quan sát dưới
kính hiển
vi hay kính lúp: các đường
song tinh, đường
sinh trưởng,
vết
cát khai và những
bao thể
của
các khoáng vật
khác như:
manhetit, graphit, spinen, pirop, dipxit và enstatit, kim cương
...
- Hiện tưởng giả dị hướng: Cũng là dấu hiệu khá đặc trưng
của
kim cương.
Khi quan sát
ở dưới
hai nicon vuông góc với
nhau ta quan sát thấy
các tối
luân phiên với
các đốm
màu.
- Độ cứng: Kim cương
cứng
hơn
hẳn
tất
cả
các loại
đá khác do vậy
bằng
phương
pháp thử
độ
cứng
dễ
dàng nhận
biết
kim cương.
- Tỷ trọng: Có thể dùng phương
pháp cân tỷ
trọng
và sử
dụng
dung dịch
tỷ
trọng.
Ngoài ra vì kim cương
được
chế
tác chuẩn
(kiểu
briliant) nên giữa
khối
lượng
và kích thước
của
nó có một
tỷ
lệ
không đổi,
như
vậy
có thể
ước
lượng
được
khối
lượng
của
nó từ
kích thước
đường
kính của
viên đá. Những
vật
liệu
có khối
lượng
riêng khác với
kim cương
sẽ
không đúng với
tỷ
lệ
này.
- Độ dẫn nhiệt: Dùng bút thử
kim cương,
độ
dẫn
nhiệt
của
kim cương
phụ
thuộc
vào tỷ
lệ
N trong kim cương,
kích thước
của
nó và nhiệt
độ
môi trường
bên ngoài. Có một
loại
đá thay thế
kim cương
là mosanit cũng có độ
dẫn
nhiệt
cao hơn
kim cương
và không thể
phân biệt
bằng
phương
pháp này.
Dựa
vào sức
hút bề
mặt
người
ta chế
tạo
ra bút thử
kim cương
dùng loại
mực
đặc
biệt,
khi vẽ
lên kim cương
sẽ
cho đường
liền
nét, còn trên các khoáng vật
khác sẽ
có đường
đứt
đoạn.
KIM CƯƠNG
VÀ ĐÁ THAY THẾ
KIM CƯƠNG
|
Loại |
Chiết
suất |
Lưỡng
chiết
suất |
Tán sắc |
Tỷ
trọng |
Độ
cứng |
|
Kim cương |
2,147 |
Dị
thường |
0,044 |
3,52 |
10 |
|
Y3Al5O12
ytrium aluminat
YAG |
1,835 |
Dị
thường
yếu |
0,028 |
4,55-4,65 |
8-1/4 |
|
Gd3Ga5O12
Gadolinium galliant
Galliant |
2,03 |
Đẳng
hướng |
0,038 |
7,05 |
6-1/2 |
|
ZrO2 + CaO
Djevalit |
2,17 |
Đẳng
hướng |
0,060 |
5,65 |
8-1/2 |
|
ZrO2 + Y3O5
Zirconia |
2,18 |
Đẳng
hướng |
0,060 |
6,00 |
8-1/2 |
|
SrTiO3
Strontium titanat
fabulit |
2,409 |
Đẳng
hướng |
0,190 |
5,13 |
5-6 |
|
Rutin nhân tạo |
2,62-2,90 |
0,287 |
0,330 |
4,25 |
61/2-7 |
|
Zircon |
1,92-1,98 |
0,054 |
0,038 |
4,70 |
71/2 |
|
Saphia tự
nhiên và nhân tạo |
1,76-1,77 |
0,008 |
0,018 |
4,00 |
9 |
|
spinen nhân tạo |
1,73 |
Dị
thường |
0,020 |
3,65 |
8 |
|
Topaz |
1,61-1,62 |
0,008 |
0,014 |
3,58 |
8 |
|
Berin |
1,57-1,58 |
0,006 |
0,014 |
2,72 |
71/2-8 |
- Mosanit (SiC - Carbid Silic): Là loại
đá thay thế
kim cương
nhất,
là loại
gần
giống
với
kim cương
nhất
trong các loại
đá thay thế.
|
Màu |
Hầu như
không màu (G - J) đến
vàng sáng, xanh lá cây, xám |
|
Độ cứng |
91/4 có vạch được corindon |
|
Tỉ trọng |
3,20 - 3,24 |
|
Chiết suất |
n = 2,6 + 8
n = 2,691 |
|
Lưỡng chiết |
0,043 |
|
Tán sắc |
0,104 |
|
Phát quang - LW
- SW |
Hầu hết trơ,
một
vài mẫu
phát quang màu da cam yếu
Trơ |
|
Phổ hấp thụ |
Bị mất phần dưới 425 mm |
|
Tính dẫn nhiệt |
Có kết quả như
đối
với
kim cương
khi sử
dụng
thiết
bị
đo độ
dẫn
nhiệt
như
kim cương |
|
Tính dẫn điện |
Một vài mẫu thể hiện tính dẫn điện |
7.4. Kim cương
có màu do xử
lý, đặc
điểm
phân biệt
|
Màu |
Màu tự
nhiên |
Màu nhân tạo |
|
Vàng |
Tất cả các màu vàng:
- Vạch 415,5 nm rõ, các vạch
khác yếu |
Các màu vàng:
- Vạch 594 nm rõ; 498 nm; 504 nm |
|
Nâu |
Tất cả các màu nâu
- Rõ vạch 504 mm, các vạch
yếu
hơn
498 nm, 537 nm |
a. Nâu nhạt đến nâu đỏ
b. Nâu vàng đến
nâu đậm
c. Vạch 594, 637, 620, 610
2. Vạch 448 và 504 |
|
Xanh lá cây |
Rất hiếm
- 504 rõ, 498 yếu
hoặc
không có |
Hiệu
ứng chiếc dù hoặc vòng đen
ở thắt lưng |
|
Xanh da trời |
Loại IIb, bán dẫn |
|