Albert Einstein - nhà khoa học, nhà triết học

Nguyễn Tấn Hùng
Tạp chí triết học

Albert Einstein (1879–1955) là người Đức gốc Do Thái. Ông là nhà vật lư lư thuyết tương đối. Năm 1921, ông được trao giải thưởng Nobel về vật lư học. Khi Đức Quốc xă lên cầm quyền, ông di cư sang Mỹ (năm 1933); từ đó, ông giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại Đại học Princeton.

Thuyết tương đối của Einstein với công thức nổi tiếng E = mc2 là nền tảng của sự phát triển năng lượng nguyên tử, là một trong những cơ sở khoa học của các lư thuyết hiện đại về vũ trụ. Ngoài ra, theo đánh giá của các nhà khoa học, các công tŕnh nghiên cứu của ông c̣n góp phần không nhỏ vào việc khám phá những bí mật của ADN, vào cuộc cách mạng của công nghệ máy tính hiện đại, vào việc thúc đẩy tất cả các lư thuyết vật lư hiện đại cùng phát triển theo hướng hợp nhất giữa thế giới vi mô và thế giới vĩ mô.

Ngày 14-11-2002, cuộc triển lăm lớn nhất từ trước đến nay về cuộc đời và sự nghiệp của nhà khoa học vĩ đại Albert Einstein được tổ chức tại Viện Bảo tàng về lịch sử tự nhiên của Mỹ ở New York. Tại cuộc triển lăm, Giáo sư vật lư lư thuyết Hanốc Gútphaunđơ (Hanoch Gutfreund), cố vấn của Viện Bảo tàng, nhận xét: Einstein nổi tiếng không chỉ v́ những cống hiến của ông cho khoa học, mà c̣n ở những quan điểm của ông về nhiều vấn đề chính trị - xă hội, tôn giáo, đạo đức. Ông nói về chiến tranh và hoà b́nh, về tôn giáo, về nhân quyền, về chủ nghĩa dân tộc...Quan điểm của ông được bày tỏ một cách thẳng thắn, không khoan nhượng, nhiều khi có vẻ khi có vẻ ngây thơ, những người ta chú ư đến ông, lắng nghe ông nói.

Thông qua các tài liệu được công bố trong cuộc triển lăm và trên mạng Internet, gồm các sách, tài liệu do chính ông viết hoặc các tác giả khác viết về ông, cũng như những thư từ trao đổi quan điểm giữa ông với những người viết thư hỏi ư kiến ông, chúng ta biết được rằng Einstein không chỉ là nhà khoa học thiên tài, mà c̣n là một nhà triết học lớn. Quan điểm triết học của ông bao quát nhiều lĩnh vực quan trọng, từ vấn đề bản thể luận, nhận thức luận đến các vấn đề chính trị, xă hội, con người, đạo đức, tôn giáo,...Quan điểm triết học của ông thấm đượm tính duy vật biện chứng và tính nhân bản sâu sắc.

Về bản thể luận. Einstein khẳng định rằng thế giới tồn tại khách quan không phụ thuộc vào thần thánh và ư chí con người. Theo ông, vũ trụ hoạt động theo quy luật khách quan, nhà khoa học không thể tin rằng Thượng đế (Chúa trời) lại có thể can thiệp vào sự vận hành của các thiên thể.

Ông nói: “Hăy giả dụ rằng chúng ta đang nói về một nhà vật lư hay nhà khoa học lư thuyết, anh ta rất quen thuộc với những quy luật khác nhau của vũ trụ, thí dụ, các hành tinh quay quanh mặt trời và các vệ tinh quay quanh các hành tinh tương ứng như thế nào. Bây giờ, nhà khoa học này đă nghiên cứu và hiểu được những quy luật khác nhau đó, th́ làm sao anh ta có thể tin rằng một vị Thượng đế lại có thể làm sai lệch quỹ đạo của những khối vật chất khổng lồ đó...Các quy luật tự nhiên không chỉ được khám phá về mặt thực tiễn nữa. Tôi không tin vào quan niệm về một vị Thượng đế được nhân cách hoá (an Anthropomorphic God) có sức mạnh can thiệp vào những quy luật tự nhiên”.

Chính v́ thế, theo Einstein, nhà khoa học không thể tin rằng một lời cầu nguyện có thể làm thay đổi được tiến tŕnh các sự kiện. Ngày 19-1-1936, một học sinh lớp 6 ở New York, đă viết thư cho Einstein hỏi rằng các nhà khoa học có cầu nguyện không, và nếu có, th́ họ cầu nguyện điều ǵ? Ngày 24-1, Einstein viết thư trả lời như sau: “Việc nghiên cứu khoa học dựa trên tư tưởng cho rằng tất cả mọi quá tŕnh diễn ra đều bị quyết định bởi quy luật tự nhiên, và điều này cũng áp dụng cho mọi hoạt động của con người. V́ lẽ đó, một nhà nghiên cứu khoa học khó có khuynh hướng tin rằng những sự kiện lại có thể bị ảnh hưởng bởi một lời cầu nguyện, nghĩa là, một điều mong ước được khấn vời một thực thể siêu tự nhiên”.

Einstein cũng bác bỏ quan niệm tôn giáo về một vị Thượng đế quyết định hành vi và số phận của con người. Không dừng lại ở đó, ông c̣n vặch ra bản chất của vị thượng đế đó chính là phản ánh mục đích chủ quan và sự yếu đuối của con người. Ông nói: “Tôi không thể h́nh dung một vị Thượng đế lại ban thưởng hay trừng phạt những vật do ḿnh sáng tạo ra, một vị Thượng đế mà mục đích được phỏng theo mục đích của chúng ta – tóm lại, một vị thượng đế chẳng qua chỉ là phản ánh sự bạc nhược của con người mà thôi”.

Thực ra, Einstein có nói đến Thượng đế, nhưng đó là một vị Thượng đế hoàn toàn khác với Thượng đế của các tôn giáo đương thời. Thượng đế của Einstein, đó chính là thế giới, là giới tự nhiên với trật tự hợp lư của nó mà lư trí con người có thể nhận thức được; với những điều huyền diệu của nó mà con người mới chỉ nhận thức được một phần rất nhỏ. Quan niệm này của Einstein cũng giống như quan niệm phiếm thần luận của nhà triết học Hà Lan Barúc Xpinoda (baruch Spinoza, 1632-1677). Xpinôda cho rằng giới tự nhiên là thực thể duy nhất, tồn tại độc lập, không do ai sáng tạo ra; Thượng đế cũng chính là giới tự nhiên. Cho nên, khi được hỏi: “Ông có tin vào Thượng đế không?”. Einstein đă trả lời; “Tôi tin vào thượng đế của Xpinôda đă mặc khải chính ḿnh trong sự hài hoà có trật tự của những ǵ đang tồn tại, chứ không phải một vị Thượng đế liên quan đến số phận và hoạt động của con người”.

Einstein không chỉ chống lại quan niệm duy tâm khách quan về sự can thiệp của một lực lượng siêu tự nhiên, mà c̣n bác bỏ cả quan niệm duy tâm chủ quan về vai tṛ quyết định của ư chí con người. Năm 1934, phát biểu tại Hội nghị của Hiệp hội Hoa Kỳ v́ sự phát triển của khoa học (American Association for the Advancement of Science), ông nói: “Con người càng thấm nhuần sự hiểu biết về tính quy luật của sự kiện, anh ta càng tin tưởng vững chắc rằng không có chỗ cho sự giải thích tính quy luật này bằng những nguyên nhân khác với tự nhiên. Đối với anh ta, không tồn tại những quy tắc của con người cũng như quy tắc của thần thánh với tư cách là nguyên nhân độc lập của các sự kiện tự nhiên”.

Do đó, Einstein kịch liệt chống lại ư chí luận (Voluntarism) – quan niệm cho rằng với ư chí của ḿnh, cá nhân có thể thực hiện được tất cả những điều mà ḿnh muốn. Theo Einstein, con người không có tự do tuyệt đối như các nhà triết học hiện sinh đă khẳng định. Hành động của con người tuân theo tính tất yếu khách quan không chỉ của thế giới bên ngoài, mà c̣n cả của chính bên trong ḿnh. Ông nói: “Mỗi người hành động không chỉ do sự bắt buộc bên ngoài mà c̣n phải phù hợp với tính tất yếu bên trong”. Ông nói tiếp: “Tôi không tin vào sự tự do ư chí. Những lới nói sau đây của của Sôpenhauơ (Schopenhauer): “Con người có thể làm điều anh ta cần, nhưng không thể muốn có được mọi điều anh ta muốn” đă đi theo tôi trong mọi t́nh huống trong suốt cuộc đời và đă hoà giải tôi với hành động của người khác, ngay cả khi những hành động này làm cho tôi khốn khổ”.

Einstein cũng không tin vào sự tồn tại của linh hồn bất tử. Ông nói: “Tôi không tin rằng cá nhân con người có thể tiếp tục sống sau cái chết của cơ thể, mặc dù những tư tưởng như vậy v́ sợ hay do tính duy ngă đến lố bịch”.

Là người phát minh ra thuyết tương đối, ông bác bỏ các quan niệm tôn giáo về sự bất tử tuyệt đối của cá nhân, tức quan niệm về cuộc sống vĩnh cửu ở kiếp sau. Theo ông, chỉ có sự bất tử chân chính duy nhất là sự bất tử của vũ trụ. C̣n sự bất tử của cá nhân chỉ là một sự bất tử tương đối mà thôi. Ông nói: “Sự bất tử ư? Có hai loại. Loại thứ nhất nằm trong trí tưởng tượng của con người và do vậy chỉ là ảo tưởng. Chỉ có một sự bất tử tương đối (relative immortality), đó là sự duy tŕ trong kư ức về một con người qua một số thế hệ. Nhưng chỉ có một sự bất tử chân chính duy nhất, trên phạm vi vũ trụ, đó là sự bất tử của chính vũ trụ. Không có sự bất tử nào khác”.

Quan niệm về sự bất tử tương đối của Einstein về sau được nhiều nhà khoa học, nhà triết học duy vật phát triển. Theo quan điểm triết học duy vật phát triển. Theo quan điểm triết học duy vật, linh hồn bất tử và cuộc sống ở kiếp sau là điều vô căn cứ và không thể tin được. Nhưng cái chết của một con người không đồng nhất với sự hư vô hoá, bởi hành động và ư thức của người đó vẫn được lưu giữ thông qua các thế hệ con cháu, thông qua những công tŕnh mà người đó để lại cho hậu thế, thông qua những kư ức của nhiều thế hệ sau. Quan niệm này có một ư nghĩa đạo đức cao hơn quan niệm này có một ư nghĩa đạo đức cao hơn quan niệm về sự bất tử tuyệt đối của tôn giáo mà Einstein cho rằng nó xuất phát từ tính ích kỷ, tính duy ngă (egoism, egoticism) của cá nhân.

Về nhận thức luận. Là nhà khoa học, Einstein đứng trên quan điểm duy vật về nhận thức. Ông không tin vào “Sự mặc phải” (reverlation), tức là sự tiết lộ của Thượng đế về những bí mật của thế giới cho một vài người, mà trái lại, con người nhận thức thế giới bằng chính lư trí của ḿnh. Theo ông, mặc dù lư trí con người là nhỏ bé, nhưng là cái duy nhất mà con người có được để nhận thức thế giới.

Lúc đầu, giáo dục tôn giáo của nhà trường đă biến ông thành người ngoan đạo tin rằng, Kinh thánh là do chính Chúa trời mặc khải cho con người. Nhưng từ năm 12 tuổi, nhờ tiếp xúc với khoa học mà ông nhanh chóng đoạn tuyệt được với niềm vui mù quáng đó. Ông nói: “Nhờ đọc được những sách khoa học phổ thông, tôi nhanh chóng nhận ra rằng phần nhiều những câu chuyện trong Kinh thánh là không thể có thực”.

Einstein kịch liệt phê phán nạn mê tín dị đoan cùng những lư thuyết bịa đặt về khả năng nhận thức những bí mật của thế giới thông qua sư liên hệ trực tiếp của linh hồn con người với thần thánh, như chủ nghĩa duy linh (Spiritualism), chủ nghĩa thần trí (Theosophy). ông nói: "Khuynh hướng thần bí của thời đại chúng ta đặc biệt thể hiện ở sự gia tăng đột ngột của cái gọi là chủ nghĩa thẩn trí và chủ nghĩa duy linh, theo tôi chỉ là dấu hiệu của yếu đuối và sự nhầm lẫn. Bởi v́ những kinh nghiệm nội tâm của chúng ta chỉ là những biểu tượng và sự kết hợp những ấn tượng cảm tính, do đó quan niệm về một linh hồn không có cơ thể đối với tôi h́nh như chỉ là sự trống rỗng và vô nghĩa"(10).

Là nhà khoa học lư thuyết, tất nhiên Einstein cũng không ủng hộ chủ nghĩa kinh nghiệm (empiricism) cũng như biểu hiện hiện đại của nó là chủ nghĩa thực chứng mới (Neo-positivism). Tuy nhiên, Einstein cũng chỉ ra những hạn chế của chủ nghĩa duy lư (rationalism). ông nói: "Đúng là niềm tin cần phải dựa một cách tất nhất trên kinh nghiệm và tư duy. Về điểm này, chúng ta phải đồng ư một cách không ngần ngại với những người duy lư cực đoan. Tuy nhiên, điểm yếu của quan điểm này là ở chỗ, nhiều điều tin tưởng đóng vai tṛ tất yếu và quyết định hành vi ứng xử và sự phán xét của chúng ta lại không chỉ được t́m thấy bằng phương pháp khoa học cứng nhắc. Bởi v́, phương pháp khoa học chỉ dạy cho chúng ta không có ǵ khác hơn là các sự kiện liên hệ với nhau, quy định lẫn nhau như thế nào. Khát vọng vươn tới tri thức khách quan là cái tối cao mà con người có khả năng đạt được, và các bạn chắc sẽ không nghi ngờ tôi có ư định xem nhẹ những thành tựu và những nỗ lực anh hùng của con người trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, cũng rơ ràng rằng tri thức về cái đang tồn tại sẽ không mở cửa trực tiếp đi đến tri thức về cái sẽ phải tồn tại. Một người có thể có tri thức rơ ràng nhất, hoàn chỉnh nhất về cái đang tồn tại, nhưng không thể từ đó mà suy diễn ra rằng cái ǵ sẽ là mục đích của những khát vọng của con người chúng ta" (11).

Chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa duy lư và chủ nghĩa thực chứng tuyệt đối hóa vai tṛ của tri thức kinh nghiệm hoặc tư duy lôgíc, nhưng theo Einstein, những tri thức và niềm tin của chúng ta nhiều khi không dựa trên những cái đó. Có những điều mà chúng ta tin là tất đẹp trong cuộc sống nhưng chúng ta không thể chứng minh bằng tư duy lôgíc được.

Tất nhiên, Einstein không quy những cái đó thành "cái phi lư" như các nhà triết học hiện sinh. Đồng thời, ông cũng không đồng ư với quan niệm của các đại biểu của chủ nghĩa thực chứng, một trào lưu triết học đang thịnh hành ở nhiều nước phương Tây lúc bấy giờ, quy mọi tri thức của chúng ta về sự quan sát trực tiếp hoặc về các công thức toán học và lôgíc học.

Theo ông, sự quan sát và thực nghiệm khoa học chỉ giúp chúng ta giải thích một số hiện tượng đang tồn tại; lư tính của con người c̣n rất hạn chế và những công thức lôgíc c̣n quá chật hẹp, chưa đủ khả năng để giải thích tất cả mọi điều. Do đó, chúng ta phải dựa ' vào toàn bộ kinh nghiệm sông của các thế hệ đi trước cũng như của chính ḿnh và nhiều khi c̣n phải nhờ đến trực giác khoa học. ông nói: "Tôi không tin bất cứ quan niệm nào về Thượng đế dựa trên sự sợ hăi trong cuộc sống và cái chết. Tôi không thể chứng minh được rằng không có một vị Thượng đế có nhân tính, nhưng nếu tôi nói về ông ta th́ tôi sẽ là kẻ bịa đặt" ... "Tôi tin vào t́nh hữu ái của con người và tính độc đáo của cá nhân. Nhưng nếu bạn bảo tôi phải chứng minh điều tôi tin th́ tôi không thể làm được. Chúng ta biết đó là những điều chân thật nhưng chúng ta có thể mất cả đời người mà không thể chứng minh được chúng"(12).

Mặc dù lúc bấy giờ có những lư thuyết khoa học "đă đặt tính nhân quả cơ giới trong sự nghi ngờ", nhất là phủ nhận nó trong thế giới vi mô [thí dụ, cơ học lượng tử của Mắc Blăng (Max Planck), lư thuyết nguyên tử của Ninxơ Bo (Niels Bohr], nhưng Einstein vẫn tin vào sự thống nhất giữa thê' giới vĩ mô và vi mô, vào tính phổ biến của quyết định luận duy vật trong cả hai thế giới đó. ông đă dành 30 năm cuối của cuộc đời để chứng minh cho niềm tin đó, nhưng ông thú nhận đă không thành công. Tuy nhiên, theo nhận xét của Giáo sư vật lư lư thuyết Hanốc Gútphaunđơ, cố vấn của Viện Bảo tàng về lịch sử tự nhiên của Mỹ ở New York, th́ Einstein đă thành công, v́ những cố gắng của ông đă thúc đẩy các lư thuyết khoa học hiện đại cùng phát triển theo hướng đó.

Về quan điểm chính trị - xă hội. Lư tưởng của Einstein là một xă hội công bằng và b́nh đẳng, trong đó không có sự phân biệt giai cấp, phân biệt chủng tộc. ông đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa apácthai (aparthéd). ông ủng hộ chế độ dân chủ, trong đó mọi cá nhân được tôn trọng và bảo vệ, nhưng đồng thời ông cũng chống lại tệ sùng bái cá

nhân. Ông nói: "Quan điểm chính trị của tôi là chế độ dân chủ. Hăy để mọi cá nhân được tôn trọng vả không có người nào được thẩn tượng hóa" . . . "Tôi chống lại chủ nghĩa dân tộc, dù nó có đội lất chủ nghĩa yêu nước". . . "Đặc quyền đặc lợi dựa trên địa vị và tài sản, đối với tôi, là bất công và có hại, cũng như sự sùng bái cá nhân một cách quá đáng"... "B́nh đắng xă hội và sự bảo trợ về kinh tế cho cá nhân, theo tôi là những mục đích cộng đồng quan trọng nhất của nhà nước" (13).

Einstein ủng hộ ḥa b́nh, chông chiến tranh. Theo ông, nếu một cuộc chiến tranh thế giới lần thứ ba nổ ra th́ nhân loại sẽ trở lại thời kỳ đồ đá. ông nói: Tôi không biết người ta sẽ sử dụng loại vũ khí ǵ trong chiến tranh thế giới lần thứ ba. Nhưng trong chiến tranh thế giới lẩn thứ tư, chắc chắn người ta sẽ sử dụng cây gậy và ḥn đá. Einstein có cách tiếp cận một cách duy vật về đạo đức. ông bác bỏ quan niệm về nguồn gốc thần thánh của đạo đức. Theo ông, "Hành vi đạo đức của một người phải dựa một cách có hiệu quả trên t́nh cảm, giáo dục, quan hệ và nhu cầu xă hội; không cần có một cơ sở tôn giáo nào. Con người sẽ thật là tồi tệ nếu anh ta phải kiểm chế v́ sợ bị trừng phạt hoặc hy vọng ở sự ban thưởng sau khi chết"(14).

Trong một cuộc trao đổi ư kiến, Pitơ A.Búcki (Peter A.Bucky) đă hỏi Einstein: "ông có nghĩ rằng hầu hết mọi người cần tôn giáo để kiểm soát họ chăng?". Einstein đáp: Không, rơ ràng không. Tôi không tin một người phải kiềm chế trong hành vi hàng ngày của ḿnh v́ sợ trừng phạt sau khi chết hoặc anh ta phải làm như vậy để được ban thưởng sau khi chết.

Điều đó thật vô nghĩa. Sự chỉ dẫn đúng đần trong cuộc sống của con người là gánh nặng trách nhiệm mà anh ta đặt nó lên đạo đức và khối lượng của sự quan tâm mà anh ta dành cho người khác. Giáo dục có vai tṛ to lớn trong lĩnh vực này. Tôn giáo không được gây ra sự sợ hăi trong cuộc sống và sự Bợ hăi về cái chết, mà phải thay vào đó bằng sụ phấn đấu để đạt đến tri thức lư tính"(15).

Theo Einstein, những nguyên tắc đạo đức phải xuất phát từ mục đích phục vụ cho sự tồn tại và hạnh phúc của con người; nếu làm theo chúng th́ "sẽ mở rộng tối đa phạm vi của sự an toàn, sự thỏa măn và thu hẹp đến mức tối đa t́nh trạng đau khổ”( 16) của con người.

(1) Dẫn theo: Peter A. Bucky with allen G Weaklan, Andrews and McMeel, The Private

(2) Albert Einstein: The Human Side. Selected and Edited by Helen Dukas and Banish Hollman Princeton University Press, 1979, P.32.

(3)Albert Einstein The word as i see. It philosophical Library, New York, 1949, pp.24 -28.

(4) Albert /einstein: Philosopher – Scientist. Edited by Paul Arthur Schilpp, The open Court Publishing Co., La Salle, Illinois, Third Edition, 1970, pp, 659 -660.

(5)Albert Einstein: Ideas and opinons. Based on Mein Weltbild, edited by Carl Seelig, New Yord, Bonzana Books, 1954, pp. 8 -11.

(6) Albert Einstein: The word as i See it. Ibid pp. 24 -28.

(7) Albert Einstein:, All the Questions You Ever wanted to ask American Atheists, vol. II. Quoted by Madalynn Murray O’ hair, 1982, p. 29.

(8) Xem: Nguyễn Tần Hùng. Quan niệm về sự bất tử của con người. Tạp chí Tâm lư học, số 10, 2002, tr.59 -63.

(9) Albert Einstein: Philosopher – Scientist. Ibid.,pp. 659 -669.

(10) Albert Einstein: Phi/osopher - Scientist. Ibid., pp. 659 - 669.

(11) Ronald W. Clark. Einstein : The Life and Times. World Pub. Co. , New York, 1971 , p. 622.

(12) Albert Einstein: Ideas and Opinions. Ibid., pp. 8-11.

(13) Albert Einstein: Ideas anđ Opinions. Ibid., pp. 8-11

(/4) A/bert Einstein. Religion and Science. New York Times Magazine, 9 November 1930.

(15) Peter A. Bucky ẃth Allen G.Weakland, Andrews and McMeel. The Private Albert Einstein. Kansas Cây, 1992, pp. 85 - 87.

(16) Albert Einstein. Out of My Later Years. Philosophical Library. New York. 1950, pp. 15 - 20.

(Nguồn:  Tạp chí triết học)